3.7
(74.12%)
17
votes
Cần phải hiểu rõ thơ đường luật là gì và các luật được sử dụng để có thể hiểu hơn về thể loại thơ này hoặc làm ra những tác phẩm để đời.
Thơ đường luật là gì?
Thơ đường luật hay còn được gọi với cái tên là thơ luật đường. Đây là một thể thơ đường với các luật được xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ đường phát triển rất mạnh mẽ không chỉ trên chính quê hương của nó mà còn nổi tiếng ở một số đất nước lân cận với tư cách là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường nói riêng và tinh hoa của thi ca Trung Hoa nói chung.
Người ta còn gọi thơ Đường luật là thơ cận thể để đối lập và phân biệt với thể loại thơ cổ thể được sáng tác không tuân theo các luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống các quy tắc rất phức tạp, những quy tắc này được thể hiện ở 5 điều sau: Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục.
Xét về hình thức thì thơ đường luật được chia thành các dạng như;
-
Thất ngôn bát cú: tám câu, mỗi câu sẽ có 7 chữ. Đây được xem là dạng phổ biến nhất của thể thơ Đường luật.
-
Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ
-
Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ
-
Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ
Ngoài những dạng được kể trên thì còn rất nhiều dạng không phổ biến khác. Người Việt Nam khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo những nguyên tắc này.
Tìm hiểu về thơ đường luật tại một số quốc gia
Việt Nam
Bởi vì văn chương chính thống, hệ thống giáo dục và khoa cử tại Việt Nam thời kỳ trung đại đều sử dụng tiếng Hán nên người Việt cũng sử dụng tiếng Hán và các thể loại thơ của người Trung Hoa để sáng tác thơ văn trong đó có cả thơ đường Luật.
Người đầu tiên đưa tiếng Việt vào trong thơ văn của Việt Nam chính là Nguyễn Thuyên, ông đã đặt ra thể thơ Hàn luật. Đây là một thể thơ kết hợp giữa thơ Đường luật cùng với các thể loại thơ của dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Sau khi phong trào thơ mới xuất hiện thì số người sử dụng luật thi đã bị giảm đáng kể.
Nhật Bản
Vào khoảng thế kỷ thứ 5, chữ Hán đã bắt đầu du nhập vào Nhật Bản. Khi thái tử Shotoku (Thánh Đức) bắt đầu nhiếp chính vào năm 593 đã ban hành một hiến pháp “Thập thất điều” và gửi rất nhiều phái đoàn sang nhà Đường để du học.
Năm 710, Nữ hoàng Genmei đã rời đô về Nara và đặt tên là Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794 Thiên hoàng Kammu rời đô về Heian và thành lập kinh đô (Heian-kyo, Bình An Kinh). Đây chính là thời kỳ Nhật Bản mô phỏng thời nhà Đường của Trung Hoa từ kiến trúc đô thành, văn hóa, nghi thức đến cả văn học. Thời kỳ này kéo dài ít nhất đến khi Nhật Bản ngừng cử những phái đoàn sang giao lưu và học tập với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học cửa công và đồng nghĩa với các sinh hoạt cung đình.
Thành tựu đáng chú ý nhất mà người Nhật Bản đạt được với thể loại thơ Đường luật chính là Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Tập thơ này gồm có 120 bài thơ được sáng tác bằng chữ Hán của rất nhiều nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế và các thành viên quý tộc, hoàng tộc cho đến những tăng lữ đến từ Trung Hoa nhập quốc tịch vào Nhật Bản. Các sáng tác đa phần được thực hiện trong khoảng thế kỷ thứ 7 và 8, thể thơ được sử dụng chủ yếu trong tập thơ này chính là bát cú, tứ tuyệt, ngũ ngôn.
Luật
Đối âm (luật bằng trắc)
Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên nếu chữ thứ 2 trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh sắc thì được gọi là luật trắc. Chữ thứ 2 và chữ thứ 6 trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và đồng thời chữ thứ 4 không được có thanh điệu giống với 2 chữ kia.
Ví dụ nếu chữ thứ 2 và thứ 6 đã sử dụng thanh trắc thì chữ thứ 4 bắt buộc phải sử dụng thanh bằng hoặc ngược lại. Nếu một câu thơ trong bài thơ đường luật không sử dụng quy tắc này sẽ được gọi là “thất luật”.
Đối ý
Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3, thứ 4 phải đối nhau và cả 2 câu thứ 5, thứ 6 cũng phải đối nhau.
Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới…
Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi “thất đối”.
Một số dạng thơ đường luật
Thất ngôn bát cú
Thơ thất ngôn bát cú chính là một thể loại thơ cổ xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, đến thời Đường đã được các nhà thơ đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ đó. Đặc điểm của thể loại thơ này chính là mỗi bài thơ sẽ có 8 câu và mỗi câu có 7 chữ, đồng thời tuân theo một quy tắc rất chặt chẽ.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất chính là một bài “thất ngôn bát cú” nhưng đem bỏ đi 4 câu đầu hoặc 4 câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần… vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này sẽ trở thành một bài thơ “4 câu 3 vần” mà Nguyễn Du đã sử dụng để viết truyện Kiều.
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất chính là một bài thất ngôn tứ tuyệt nhưng đem bỏ đi 2 chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và luật sử dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
Ngũ ngôn bát cú
Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.
Khi làm thơ Đường Luật thì chúng ta phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc thì dù nội dung bài thơ của bạn có hay đến mấy đi nữa thì cũng không được chấp nhận.
vanhocquenha.vn – Văn Chương