thơ trữ tình (Thơ) – Mimir Bách khoa toàn thư

Thơ trữ tình, cùng với sử thi và kịch thơ, từ lâu đã trở thành một trong ba bộ phận chính của thơ, nhưng sự phân chia này có lẽ chỉ để cho tiện. Bản thân thơ trữ tình ngay từ đầu đã khó xác định một cách chặt chẽ và trọng tâm là thể hiện cảm xúc chủ quan và cảm xúc nội tâm của một cá nhân, ngược lại với thơ sử thi phải trung thành theo sự chuyển biến của một trường hợp nhất định. Mặc dù có thể nói là nói đến thơ, nhưng không có gì lạ khi sử thi và tuồng mang những yếu tố như vậy. Đặc biệt là trong thời hiện đại khi sử thi và ca dao đã suy tàn, hầu như tất cả thơ đều có thể được coi là thơ trữ tình, và thực tế là thơ trữ tình đại diện cho thơ.

Châu Âu

Nguồn gốc của các ngôn ngữ phương Tây được dịch là thơ trữ tình bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp và bắt nguồn từ lyrikos, viết tắt của lyra và những thứ liên quan. Nói cách khác, từ này đầu tiên dùng để chỉ bài hát mà nhà thơ hát cùng với đàn lia, và nhà thơ là người sáng tác và biểu diễn cũng như viết lời. Trong một số trường hợp, nhà thơ trở thành nhạc trưởng của dàn hợp xướng và đại diện cho những người cố gắng thể hiện cảm xúc tập thể liên quan đến tôn giáo, nghi lễ, v.v. Trong mọi trường hợp, thơ ca gắn liền với âm nhạc được chơi bởi đàn lia và sáo, đôi khi với vũ điệu. Ngay cả ở Rome, thơ ca đã được đi kèm với âm nhạc, và những bài thơ của các nghệ sĩ chơi bài châu Âu thời trung cổ cũng được hát cho các nhạc cụ. Thơ bắt đầu độc lập dần với âm nhạc từ khoảng thế kỷ 13, và cuối cùng là Petrarca, Ronsard, Shakespeare, v.v. Sonnet Những tác phẩm thơ ngắn như vậy sẽ là cơ sở của thơ trữ tình Châu Âu hiện đại.

Từ thời Hy Lạp cổ đại, thơ đã là một nghệ thuật ngôn ngữ dựa trên một quy tắc âm vị học nhất định và tuân theo các quy tắc như vần và chuyển âm. Sau thời kì trung đại, các thể loại thơ trữ tình khác nhau dần được sắp xếp. Ode ( Aude ), Bài hát buồn ( Elegy ), Thánh ca, thánh ca, v.v., nhưng thể loại được trồng ở Hy Lạp cổ đại thường được kế thừa theo cách phát triển, còn được gọi là <Pindar-style ode>, và truyền thống cũng đã phát huy tác dụng về mặt đó. Có. Ngoài ra, bao gồm Sonnet Bản ballad , , Định dạng Rondo Hình thức được gọi là thơ cố định cũng đã được phát triển, và do đó thơ trữ tình ở châu Âu hiện đại chiếm phần quan trọng nhất của văn học như một nghệ thuật ngôn ngữ thể hiện tình cảm và cảm xúc dưới nhiều quy tắc hình thức khác nhau.

Khi bộc lộ cảm xúc thì có nhiều loại cảm xúc khác nhau, nhưng theo quan điểm chủ thể của thơ trữ tình thì có thể chia chúng thành loại tập thể và loại cá nhân. Cảm xúc tập thể đang hát ca ngợi anh hùng mà nhiều người thường thấy, chẳng hạn như ở Pindar. Tương tự, những cảm xúc nên được nhiều người chia sẻ bao gồm ca ngợi các vị thần, bày tỏ sự vâng lời với hoàng tử, thể hiện tình yêu quê hương và nhân loại, và các biểu hiện tôn giáo. Các nhà thơ đã làm những điều như nhổ ra.

Việc phân loại tất cả các đối tượng dựa trên cảm xúc cá nhân sẽ dẫn đến kết quả giống như việc liệt kê các loại cảm xúc của con người, và không có ý nghĩa lắm. Nhưng không phải là vô ích khi chỉ ra một số đối tượng đặc quyền mà thơ trữ tình truyền thống đã từng chiếm lĩnh. Điều này là do những cảm xúc và tình cảm khẩn cấp nhất, quan trọng nhất đối với tất cả con người đều tự nhiên xuất hiện.

Từ xa xưa, đối tượng mà thơ trữ tình chiếm lĩnh nhiều nhất là những cảm xúc, tình cảm liên quan đến bản thân cuộc sống – niềm vui sống, sự mong manh của tuổi trẻ, và cảm xúc của tuổi già. Tình yêu cũng là một chủ đề hàng đầu của các nhà thơ trữ tình. Ngoài ra, tình cảm với thiên nhiên tiếp tục là nguồn gốc quan trọng của thơ trữ tình, và nỗi sợ hãi cái chết, sự cô đơn, và sự bất ổn, chán nản gắn liền với cuộc sống dần dần phủ bóng đen lớn lên như một đối tượng của thơ trữ tình thời hiện đại. Tôi không cần thêm những gì tôi đã làm.

Nhìn vào lịch sử thơ ca hiện đại châu Âu, cách thức của thơ ca thay đổi theo thời đại, nhưng nó liên quan đến việc cảm xúc tập thể là chủ đạo hay cảm xúc cá nhân được ưu tiên. Từ thời đại Phục hưng đến thế kỷ 17, thơ trữ tình khơi dậy cảm xúc cá nhân đã thịnh vượng, và trong thời đại chủ nghĩa cổ điển, điều quan trọng là thể hiện những cảm xúc phi cá nhân một cách hùng hồn. .. Sau đó, trong thời đại của Chủ nghĩa lãng mạn, trước hết, người ta cho rằng thơ là thứ văn học mang tính cá nhân thể hiện những cảm xúc và cảm xúc chủ quan, và là một nghệ thuật tự thú nhận những chuyển động sâu thẳm bên trong của tâm hồn. Sau đó, vào thế kỷ 20, với sự trỗi dậy của Chủ nghĩa siêu thực, sự nhấn mạnh chuyển sang thơ ca như một giấc mơ hoặc biểu hiện vô thức, và chất lượng của chủ nghĩa trữ tình đã thay đổi hoàn toàn. Đồng thời, cần lưu ý rằng sự hạn chế của câu thơ cố định đã được nới lỏng rất nhiều.

Nếu hiểu thơ trữ tình theo nghĩa rộng là thơ thể hiện tâm tư, tình cảm chủ quan, chiếm một vị trí lớn trong bất kỳ nền văn học nào. Ví dụ, ngay cả ở Trung Quốc, thơ trữ tình vẫn tiếp tục là trụ cột chính của văn học, cùng với thơ ca biểu đạt tư tưởng, kể từ tập thơ cổ nhất “The Classic of Thơ” được mô tả sau này.

Nhật Bản

Ở Nhật Bản sau thời Minh Trị, dưới ảnh hưởng của thơ ca châu Âu hiện đại, phong trào Shintaishi, nỗ lực mở rộng lãnh thổ thơ ca và đổi mới thơ ca, đã trở thành lực lượng đầu tiên mở đầu một bước phát triển mới của thơ trữ tình. Tuyển tập “Thơ trữ tình”, là tập hợp các tác phẩm của sáu nhà thơ, trong đó có Doppo Kunikida, người đã tuyên bố rằng mình “đã chuẩn bị ngay từ đầu và tin rằng mình còn trẻ để đạt được sự phát triển đầy đủ chỉ về thơ trữ tình.” Qua những việc như vậy, tư tưởng thơ trữ tình mới dần lan rộng. Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề thơ trữ tình trong văn học Nhật Bản, tất nhiên chỉ nhìn vào dòng chảy thơ trữ tình sau thời Minh Trị là chưa đủ. Tanka , Không thể làm sáng tỏ những đặc điểm của thơ trữ tình Nhật Bản trừ khi xem xét đến thể loại thơ trữ tình truyền thống được hình thành từ haiku.
Akimasa Kanno

Trung Quốc

Ở Trung Quốc, thơ từ lâu đã được cho là sự thể hiện cảm xúc của tác giả thông qua ngôn ngữ. Vì vậy, thơ trữ tình phát triển hơn thơ sử thi. Tất nhiên, nhiều sự kiện văn hóa dân gian, sự kiện lịch sử, và thậm chí cả thế giới thực được đề cập trong tác phẩm, nhưng nó là cơ hội và nền tảng để gây ấn tượng với tác giả, và chính tác giả. Nó không phải là trọng tâm chính của ca hát. Những gì tác giả cố gắng truyền tải được cho là những nội tâm của mình. Thơ ca Trung Quốc đã có truyền thống lâu đời kể từ “Thơ kinh điển”, nhưng lịch sử của nó có thể nói là lịch sử của thơ trữ tình mà thời kỳ đỉnh cao. Câu thơ quy định Là. Vào thời Đường, sự phân biệt giữa “thân già” và “bây giờ thân (gần thân)” đã được xác định một cách gọn gàng về mặt thơ ca, và các thi sĩ khi hát đều tỏ ra cao hứng, tận dụng hết thể thơ thích hợp. Trong triều đại nhà Tống, thơ ca thông minh và suy đoán trở nên thống trị hơn, và ít có khả năng bộc lộ nội tâm của mình một cách công khai. Thể loại mới nổi lúc bấy giờ < Lời bài hát Có lẽ cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ tự do hơn trong dấu ()>. <Nhạc> là một nghệ thuật văn chương có nguồn gốc từ một bài hát tiệc ở thời Đường, nhưng được hoàn thiện thành một bài thơ trữ tình có hình dáng độc đáo vào thời Tống. Từ đó đến nay, thơ trữ tình Trung Quốc chủ yếu có hai dạng: “thơ” truyền thống và sau này là “ca từ”. <Lyrics> tạm thời bị suy giảm sau khi từ chối truyền lại giai điệu sau thế hệ đầu tiên, nhưng trong triều đại nhà Thanh vào thế kỷ 17, nó một lần nữa được sản xuất tích cực như một hình thức thơ trữ tình.
→ Thơ → Sử thi
Ken Arai

Rate this post

Viết một bình luận