THỦ PHÁP ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ CỔ
Ước lệ: Là biện pháp diễn đạt bằng hình ảnh có tính chất qui ước thường được dùng trong văn chương cổ.
Ví dụ: dùng hình ảnh “tuyết rơi” để tả mùa đông, “lá vàng rụng” để chỉ mùa thu, “giọt châu” để chỉ giọt nước mắt, “làn thu thuỷ” để chỉ ánh mắt của người con gái.
Tượng trưng: Là biện pháp diễn đạt cái trừu tượng bằng một hình ảnh cụ thể thường lấy từ cây cỏ, chim muông.
Ví dụ: Hình ảnh cây trúc tượng trưng cho người quân tử, cây tùng tượng trưng cho nhân cách cứng cỏi, vững vàng, tuyết tượng trưng cho tâm hồn trong sáng,…
Ước lệ và tượng trưng giống nhau ở chỗ cả hai đều là hình ảnh ẩn dụ và khác nhau ở chỗ tượng trưng là một hình ảnh hoàn chỉnh, ước lệ phần nhiều chỉ là một chi tiết của hình tượng.
Hình ảnh ước lệ tượng trưng là sáng tạo nghệ thuật của mĩ học phong kiến, nó có giá trị thẩm mĩ nhất định. Người xưa dùng hình ảnh cây thông (tùng) bốn mùa có tán lá xanh tươi, quanh năm đứng vững chãi trên dốc núi cheo leo bất chấp bão bùng sương tuyết để tượng trưng cho nhân cách cứng cỏi, có bản lĩnh vững vàng, có khí phách hiên ngang không nghiêng ngả trước uy quyền danh lợi.
Hay hình ảnh hoa dưới nhiều dạng: hoa cười, hoa rơi, hoa tàn, hoa xưa,…để miêu tả người đẹp, sắc đẹp, tình yêu nam nữ,…đó là những sáng tạo nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ.
Phương pháp nghệ thuật cổ không miêu tả hiện thực theo dạng tả chân thực, theo thẩm mĩ văn học cổ dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng đem lại cho lời văn lời thơ trang nhã, bóng bẩy, súc tích.
Ví dụ: Trong “Chinh phụ ngâm”, tác giả miêu tả cảnh đêm người chinh phụ nhớ chồng, khi là cảnh đêm có sương, có mưa (Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun) khi là cảnh đêm có tuyết rơi (Tuyết tiêu gió thốc ngoài hiên) khi là đêm có trăng, hoa (Trăng dãi nguyệt, nguyệt in một tấm. Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông),…
Tác giả không tả một đêm cụ thể nào của thời gian và không gian xác định mà tả cái đêm “tổng hợp” của bao nhiêu đêm người chinh phụ đã trải qua. Tuy tác giả không vẽ ra trước mắt chúng ta một đêm cụ thể nào nhưng cái cảm giác duy trì các hình ảnh gợi ra cho người đọc là nỗi lòng nhớ chồng đau đáu, thiết tha, thấm thía của người chinh phụ.
Song bên cạnh đó ước lệ tượng trưng được sử dụng một cách sáo mòn, công thức làm cho câu văn, câu thơ rơi vào tình trạng nặng về hình thức, nghèo nàn về nội dung.
Nghệ thuật dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Với những hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc nhưng Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình miêu tả được những bức chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Khi tả chị em Thuý Kiều:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
Dáng vẻ của họ thanh tú như cây mai, tâm hồn trong trắng như tuyết
– Tả Thuý Vân: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhương màu da”
Qua nhiều hình ảnh ước lệ “khuôn trăng”, nét ngài” hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể hết được tỉ mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần. Vẻ đẹp “trang trọng, dầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết nhường” luôn tạo cho mọi người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng . Vân hiện lên với chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu.
– Tả Thuý Kiều: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
Nguyễn Du cũng dùng những hình ảnh ước lệ quen thuộc “làn thu thuỷ”, “nét xuân sơn” để chỉ ánh mắt, lông mày. Tuy vậy với những hình ảnh “hoa ghen, liễu hờn” nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều thuộc loại nhan sắc độc đáo kì lạ, vượt lên sự bình thường. Vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà”.
– Tả Từ Hải: “Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”.
Cách nói ước lệ “râu hùm”, “hàm én”, “mày ngài” để miêu tả vẻ đẹp đường bệ, uy nghi, phi thường của một nhân vật anh hùng, hiệp sĩ
Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ với nhiều biện pháp linh hoạt sáng tạo nên không sáo mòn, người đọc không thấy nhàm.
– Dùng nhiều từ khác nhau; tả giọt nước mắt người đẹp Thuý Kiều:
+ Giọt châu (Giọt châu lã chã khôn cầu)
+ Giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng)
+ Giọt lệ (Rưới xin giọt lệ cho người thác oan)
+ Giọt ngọc (Nàng càng giọt ngọc như chan)…
– Ghép từ ứơc lệ với ngôn ngữ dân gian, tách ra thành những tiểu đối tạo nên cách diễn đạt sinh động:
+ Hoa thải, hương thừa.
+ Hoa trôi bèo dạt.
+ Nước chảy hoa trôi.
– Kết hợp hình ảnh ước lệ với ngôn ngữ dân gian tạo nên cách diễn đạt giàu sức biểu cảm: Hoa ghen liễu hờn
Mây thua, tuyết nhường.
– Kết hợp hình ảnh ước lệ với nhân hoá, thậm xưng:
Hoa cười, ngọc thốt
Hoa ghen, liễu hớn
Mây thua, tuyết nhường.
Ước lệ tượng trưng là một đặc điểm của nghệ thuật thơ văn cổ. Đó là cách diễn đạt theo qui ước, khuôn mẫu có sẵn làm cho lời thơ, lời văn thêm tao nhã, thâm thuý. Các nhà thơ cổ đặc biệt là Nguyễn Du là người đã có nhiều sáng tạo trong thủ pháp này.
Nhắn tin cho tác giả