1.ĐẠI CƯƠNG.
Virus Varicella-zoster (VZV) là một trong tám loại herpes virus gây bệnh ở người. Nhiễm thủy đậu ở trẻ em thường nhẹ, bệnh tự giới hạn trong 1 – 2 tuần, trong khi nhiễm trùng ở người lớn thường nặng hơn với các biến chứng nặng có thể dẫn tới tử vong. Thủy đậu ở phụ nữ có thai thường có nhiều biến chứng, viêm phổi do thủy đậu thường nặng nề và có thể dẫn đến những bất thường bẩm sinh cho con.
Nhiễm VZV gây ra hai dạng bệnh khác nhau trên lâm sàng: varicella (thủy đậu) và herpes zoster (bệnh zona).
Thủy đậu: Nhiễm VZV nguyên phát dẫn đến phát ban mụn nước lan tỏa. Thủy đậu tiên phát ở phụ nữ có thai có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của mẹ và thai nhi:
- < 2% thủy đậu gặp ở người lớn nhưng tỷ lệ tỷ vong do thủy đậu chiếm ¼ ở độ tuổi này. Vì vậy, phụ nữ mang thai là nhóm bệnh nhân nguy cơ biến chứng và tử vong cao đáng kể.
- Mẹ mắc thủy đậu trong thời kỳ đầu mang thai (8 – 20 tuần), thai nhi có nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh, đặc trưng bởi chứng chi ngắn, tổn thương da, bất thường về thần kinh và cấu trúc mắt.
- Bệnh thủy đậu ở bà mẹ khi mang thai có nguy cơ phát triển bệnh zona ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
- Mẹ mắc bệnh thủy đậu ngay trước hoặc ngay sau khi sinh, em bé có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu sơ sinh.
Zona: Tái kích hoạt virus tiềm ẩn ở hạch thần kinh dẫn đến hình thành mụn nước, đau rát phân bố theo chi phối của thần kinh. Nhiễm zona trong thời kì mang thai ở mẹ không liên quan tới nguy cơ hội chứng thủy đậu bẩm sinh ở con.
2.DỊCH TỄ HỌC
Tỷ lệ mắc thủy đậu khi mang thai ở Hoa Kỳ từ 1 đến 5 trường hợp trên 10.000 ca mang thai. Tỷ lệ mắc thấp này có liên quan đến tỷ lệ huyết thanh dương tính với VZV cao (> 95%). Tỷ lệ tương tự đã được báo cáo ở châu Âu, nhưng tỷ lệ huyết thanh dương tính VZV ở những người sống ở khu vực nhiệt đới thấp hơn, khoảng 50%.
Tỷ lệ mắc thủy đậu không cao hơn ở phụ nữ mang thai so với mặt bằng chung của người lớn, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn. Viêm phổi do thủy đậu chiếm 10 – 20 % các nhiễm trùng gây biến chứng ở thai kì. Các yếu tố nguy cơ của viêm phổi do thủy đậu khi mang thai bao gồm tiền sử hút thuốc và nhiều hơn 100 tổn thương mụn nước ở da.
Các nghiên cứu thực hiện từ năm 1986 – 2002 cho thấy hội chứng thủy đậu bẩm sinh là không phổ biến, 2% phụ nữ mang thai nhiễm thủy đậu trong 20 tuần đầu thai kì sinh con mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Trong nghiên cứu tiến cứu lớn nhất về bệnh thủy đậu ở mẹ, đã có 344 trường hợp mắc zona ở mẹ và không có trường hợp nào mắc bệnh thủy đậu bẩm sinh ở con.
Tiêm phòng thủy đậu đã làm giảm số lượng nhiễm trùng thủy đậu ở mẹ và thai nhi, giảm 85% các trường hợp mắc bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh so với thời kì chưa có vaccine thủy đậu.
3.ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
3.1 Thủy đậu không biến chứng: Hình thái lâm sàng giống thủy đậu thông thường.
– Cơ năng: Thường ngứa, có thể sốt nhẹ, mệt mỏi, đau mỏi cơ 1 -4 ngày trước khi phát ban da.
– Phát ban da: thường khởi đầu ở mặt, sau đó lan đến thân mình và tứ chi, tiến triển từ 1 – 4 ngày. Bắt đầu là sẩn đó , sau đó hình thành mụn nước lõm giữa, nếu bội nhiễm hình thành các mụn mủ. Các tổn thương vỡ sau đó đóng vảy, vảy bong có thể để lại dát tăng giảm sắc tố do viêm.
Hình 1: Phát ban đặc trưng của thủy đậu: Mụn nước, mụn mủ lõm giữa.
3.2 Thủy đậu có biến chứng;
Biến chứng liên quan đến thủy đậu thường gặp ở người lớn hơn trẻ em và bao gồm viêm màng não, viêm não, mất điều hòa tiểu não, viêm phổi, viêm cầu thận, viêm cơ tim, bệnh về mắt, suy tuyến thượng thận và tử vong.
Viêm phổi do thủy đậu là biến chứng thường gặp nhất do thủy đậu ở phụ nữ có thai. Các dấu hiệu và triệu chứng chủ yếu là ho, khó thở, sốt và thở nhanh. Viêm phổi thường phát triển trong vòng một tuần sau khi phát ban. Diễn biến lâm sàng không thể dự đoán và có thể nhanh chóng tiến triển đến tình trạng thiếu oxy và suy hô hấp. X-quang ngực có hình ảnh thâm nhiễm lan tỏa hoặc các nốt trong phân bố quanh 2 rốn phổi.
4.BIẾN CHỨNG
4.1 Hội chứng thủy đậu bẩm sinh, được mô tả lần đầu tiên vào năm 1947, được đặc trưng bởi:
Sẹo da
Bất thường về thần kinh (ví dụ, chậm phát triển tâm thần, tật đầu nhỏ, não úng thủy, co giật, hội chứng Horner)
Bất thường ở mắt (ví dụ, teo dây thần kinh thị giác, đục thủy tinh thể, viêm màng bồ đào, rung giật nhãn cầu)
Bất thường về chi thể (chi ngắn, teo, nhược chi)
Bất thường đường tiêu hóa (trào ngược dạ dày, tắc ruột)
Cân nặng khi sinh thấp
Hội chứng thủy đậu bẩm sinh có tỷ lệ tử vong là 30% trong vài tháng đầu đời và 15% nguy cơ phát triển zona trong bốn năm đầu đời.
Hình 2: Các đặc trưng lâm sàng của hội chứng thủy đậu bẩm sinh
4.2 Sinh non và sảy thai tự nhiên – Thủy đậu thường không liên quan đến sảy thai tự nhiên trong ba tháng đầu. Trong một số nghiên cứu, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sảy thai tự nhiên, sinh non giữa nhóm mẹ mắc thủy đậu và nhóm đối chứng.
4.3 Nhiễm thủy đậu sơ sinh – Nhiễm thủy đậu sơ sinh là kết quả của việc truyền virus từ mẹ sang thai nhi ngay trước khi sinh ( 5 ngày trước sinh đến 2 ngày sau sinh).
Hình 3: Tổn thương thủy đậu ở trẻ sơ sinh 5 ngày tuổi có mẹ mắc thủy đậu thai kì
5.CHẨN ĐOÁN
5.1 Thủy đậu thai kì:
Chẩn đoán dựa vào lâm sàng.
Nếu có nghi ngờ về chẩn đoán lâm sàng, có thể làm thêm xét nghiệm PCR dịch mụn nước hoặc xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang. VZV cũng có thể được nuôi cấy từ dịch mụn nước, mặc dù virus nhân lên chậm và nuôi cấy kém nhạy hơn các kỹ thuật phát hiện trực tiếp.
Xét nghiệm huyết thanh thường không cần thiết để chẩn đoán bệnh thủy đậu ở mẹ và có thể gây nhầm lẫn do các xét nghiệm khác nhau về độ nhạy và độ đặc hiệu.
Chẩn đoán viêm phổi do varicella nên được xem xét khi một phụ nữ mang thai có tổn thương da điển hình, tiếp xúc với nguồn lây và có các triệu chứng hô hấp.
5.2 Hội chứng varicella bẩm sinh
Chẩn đoán trước sinh – Sau khi nhiễm trùng mẹ, nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh có thể được ước tính bằng cách sử dụng xét nghiệm PCR máu hoặc nước ối thai nhi tìm DNA VZV kết hợp với siêu âm để phát hiện các bất thường của thai nhi.
Xét nghiệm PCR có độ nhạy cao, thực hiện từ tuần 17 -21 thai kì. Siêu âm hình thái thai nên thực hiện năm tuần sau khi nhiễm trùng mẹ để đánh giá các bất thường của thai nhi phù hợp với hội chứng thủy đậu bẩm sinh, siêu âm lặp lại từ 22 đến 24 tuần được chỉ định. Nếu siêu âm lặp lại là bình thường, nguy cơ hội chứng varicella bẩm sinh là rất thấp. Nếu siêu âm cho thấy bằng chứng của hội chứng thủy đậu bẩm sinh, mẹ nên được tư vấn về khả năng mắc bệnh thai nhi.
Chẩn đoán sau sinh – Chẩn đoán hội chứng thủy đậu bẩm sinh dựa vào.
- Tiền sử nhiễm thủy đậu của mẹ trong ba tháng đầu hoặc 3 tháng giữa của thai kỳ
- Bất thường thai nhi phù hợp với hội chứng thủy đậu bẩm sinh
- Bằng chứng nhiễm trùng VZV trong tử cung, dựa vào: xét nghiệm PCR tìm DNA virus ở trẻ sơ sinh; sự hiện diện của kháng thể IgM đặc hiệu VZV trong máu cuống rốn; sự tồn tại của VZV IgG sau bảy tháng tuổi; mắc bệnh zona trong giai đoạn sớm.
6.ĐIỀU TRỊ THỦY ĐẬU TRONG THAI KÌ
6.1 Thủy đậu không biến chứng.
– Khuyến cáo điều trị bằng acyclovir đường uống cho tất cả phụ nữ mang thai: 800 mg x 5 lần/ngày x 7 ngày, điều trị bằng acyclovir có hiệu quả nhất trong vòng 24 giờ đầu.
Chưa có nghiên cứu về sử dụng acyclovir đường uống trong điều trị thủy đậu không biến chứng ở phụ nữ mang thai. Mặc dù dữ liệu động vật và dữ liệu quan sát từ phụ nữ có thai lớn không cho thấy khả năng gây quái thai của acyclovir. Một nghiên cứu tiến cứu trên thai kỳ phơi nhiễm acyclovir cho thấy tăng tỷ lệ dị tật bẩm sinh hoặc thay đổi mô hình dị tật bẩm sinh ở 596 trẻ được theo dõi.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng giả dược ở người trưởng thành nam và nữ đánh giá hiệu quả của acyclovir trong vòng 72 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng cho thấy vết thương ngoài da lành nhanh hơn và thời gian sốt rút ngắn hơn.
6.2 Viêm phổi do thủy đậu
– Viêm phổi do thủy đậu ở thai kì là một cấp cứu y tế, tỷ lệ tử vong ở phụ nữ mang thai khi chưa có thuốc kháng virus là 36- 40%. Mặc dù không có thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát acyclovir trong điều trị viêm phổi thủy đậu, dữ liệu quan sát cho thấy tác động có lợi của liệu pháp kháng vi-rút đối với tỷ lệ tử vong của mẹ.
- Một nghiên cứu hồi cứu 21 trường hợp viêm phổi do varicella ở phụ nữ mang thai được điều trị bằng acyclovir, tỷ lệ tử vong là 14%, thấp hơn so với nhóm phụ nữ không được điều trị.
- Một nghiên cứu quan sát trên 18 bệnh nhân bị viêm phổi thủy đậu, 12 bệnh nhân trong đó cần đặt nội khí quản và thở máy được điều trị bằng acyclovir, tỷ lệ tử vong là 0%.
Khuyến cáo sử dụng acyclovir tĩnh mạch (10 mg / kg mỗi tám giờ) cho phụ nữ mang thai bị viêm phổi do thủy đậu. Nguy cơ – lợi ích của việc điều trị thủy đậu ở mẹ vượt trội hơn bất kỳ mối lo ngại nào về mặt lý thuyết liên quan đến độc tính của thai nhi; không có mô hình cụ thể của dị tật bẩm sinh được xác định do acyclovir.
Mặc dù acyclovir đi qua nhau thai, chưa có dữ liệu chứng minh thuốc kháng vi rút này có làm giảm nguy cơ mắc hội chứng vthủy đậu bẩm sinh hay không.
7.TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Nhiễm virut Varicella-zoster (VZV) gây ra hai dạng bệnh khác nhau trên lâm sàng: varicella (thủy đậu) và herpes zoster (bệnh zona). Thủy đậu thường nhẹ, tự giới hạn ở trẻ em khỏe mạnh, nhưng đôi khi có thể dẫn đến bệnh tật nghiêm trọng khi mang thai.
Tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu thấp ở người lớn vì hầu hết đều có kháng thể với virus. Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu không tăng ở nhóm phụ nữ mang thai, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh cao hơn trong thai kỳ.
Tỷ lệ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh ở phụ nữ có thai mắc thủy đậu thường thấp (0,4-2%).
Varicella rất dễ lây lan, thời gian dễ lây lan nhất từ một đến hai ngày trước khi phát ban cho đến khi các tổn thương bị vỡ. Lây truyền VZV từ mẹ sang con có thể xảy ra ở tử cung, chu sinh hoặc sau sinh.
Một trong những biến chứng thường gặp nhất cho mẹ nhiễm thủy đậu thai kỳ là viêm phổi, diễn biến lâm sàng là không thể dự đoán và có thể nhanh chóng tiến triển đến tình trạng thiếu oxy và suy hô hấp, với tỷ lệ tử vong cao.
Hội chứng thủy đậu bẩm sinh được đặc trưng bởi sẹo ở da, chậm phát triển và các bất thường về thần kinh, mắt và chi.
Chẩn đoán nhiễm trùng thủy đậu ở mẹ dựa vào lâm sàng với các phát ban mụn nước đặc trưng.
Sử dụng xét nghiệm PCR của máu thai nhi hoặc nước ối để tìm VZV DNA có thể dự đoán khả năng mắc thủy đậu ở con, kết hợp với siêu âm để phát hiện các bất thường cấu trúc của thai nhi.
Acyclovir không gây quái thai, khuyến cáo sử dụng acyclovir đường uống cho phụ nữ mang thai nhiễm thủy đậu không biến chứng (Độ 2C), cho phụ nữ mang thai bị viêm phổi thủy đậu (Độ 1B). Acyclovir nên được tiêm tĩnh mạch với liều 10 mg / kg cứ sau 8 giờ ở những bệnh nhân bị nhiễm thủy đậu biến chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Laura E Riley, MD, Varicella-zoster virus infection in pregnancy, uptodate, 8/2019.
- Lamont RF, Sobel JD, Carrington D, et al. Varicella-zoster virus (chickenpox) infection in pregnancy. BJOG 2011; 118:1155.
- Marin M, Güris D, Chaves SS, et al. Prevention of varicella: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). MMWR Recomm Rep 2007; 56:1.
- Enders G, Miller E, Cradock-Watson J, et al. Consequences of varicella and herpes zoster in pregnancy: prospective study of 1739 cases. Lancet 1994; 343:1548.
- Cohen A, Moschopoulos P, Stiehm RE, Koren G. Congenital varicella syndrome: the evidence for secondary prevention with varicella-zoster immune globulin. CMAJ 2011; 183:204.
- Stagno S, Whitley RJ. Herpesvirus infections of pregnancy. Part II: Herpes simplex virus and varicella-zoster virus infections. N Engl J Med 1985; 313:1327.
Bài viết: BSNT Nguyễn Thị Thảo Nhi
Đăng bài: Phòng CTXH