Truyền Thống Hiếu Thảo Và Biết Ơn Của Người Việt Và Mỹ

Theo phong tục Việt Nam, sự hiếu thảo và nhớ ơn được coi là một truyền thống cao cả nhất. Hiếu thảo được thể hiện trong việc ân cần, trìu mến, tôn kính, vâng lời, và biết ơn cha mẹ. Tôn kính cha mẹ là phải giữ lễ phép với cha mẹ từ cách ăn nói đến việc đứng ngồi, nhất nhất đều phải giữ gìn ý tứ và không được làm điều gì mất lòng và trái ý cha mẹ.
Khi đã kính yêu cha mẹ, người con tất nhiên biết ơn cha mẹ. Sự biết ơn cha mẹ được bày tỏ trong việc phụng dưỡng và sáng viếng tối thăm (thần hôn định tỉnh). Nhớ ơn thân nhân và tha nhân, người ta thường thăm viếng và biếu quà trong các dịp lễ tết. Nhớ ơn người quá cố được thể hiện trong việc giỗ tổ tiên, ông bà, và cha mẹ. Nhớ ơn thần thánh trời Phật được biểu lộ qua việc xây chùa lập đền tế lễ tạ ơn và tổ chức hội hè đình đám. Nhớ ơn các đấng anh hùng liệt nữ và những vị có công với đất nước được cụ thể hóa bằng cách lập đền miếu để thờ và đúc tượng hay dựng đài kỷ niệm để ghi ơn.
Điểm đặc biệt về truyền thống hiếu thảo của Việt Nam là nhớ ơn người quá cố bằng cách cúng giỗ và thiết lập từ đường, nhà thờ, chùa chiền, đình, đền, hay miếu để thờ, tế lễ, và mở hội với mục đích tạ ơn hay kỷ niệm ngày thần húy (ngày thần hóa hay mất) và ngày thần đản (ngày thần giáng sinh) của các vị anh hùng có công với đất nước. Người Âu Mỹ không có phong tục này.
I. Truyền Thống Hiếu Thảo và Biết Ơn của Người Việt Nam
Người Việt Nam rất trọng sự hiếu thảo và đặt hiếu thảo lên hàng đầu của trăm nết tốt (bách hạnh). Chính vì thế mà người xưa đã nói: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên. Vì thiên tính, bậc cha mẹ nào cũng biết yêu thương, nuôi nấng, và dạy bảo con cái hết lòng mà không cần phải học mới biết. Nhưng con cái cần phải được giáo dục mới hiểu công ơn cha mẹ và bổn phận làm con.
Người Bắc Mỹ cũng có hiếu với cha mẹ, nhưng đa số có vẻ coi nhẹ chữ hiếu vì họ không được dạy bổn phận phải phụng dưỡng và nuôi nấng cha mẹ khi các người già yếu. Chính vì thế mà khi cha mẹ họ già yếu họ đưa quý cụ vào viện dưỡng lão và phú mặc cho nhà nước nuôi. Chúng ta có được truyền thống tốt đẹp về hiếu thảo là do các nhà giáo dục chân chính ở Việt Nam trước kia đã đưa vào chương trình học đường môn luân lý giáo dục. Những ai có học và được giáo dục phần lớn đều biết hiếu thảo.
Trong cuốn Nho Giáo, quyển thượng, Trần Trọng Kim đã viết về cách giáo dục con người như sau: “trước hết dùng Thi Thư mà dạy, lấy hiếu đễ mà giáo dưỡng người, lấy nhân nghĩa mà giảng giải, lấy lễ nhạc giúp người quan sát sự vật, và sau cùng mới lấy văn lấy đức để giáo dục con người cho hoàn hảo.”
Thi Thư là tên hai bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh Thi và Kinh Thư. Kinh Thi gồm các bài ca dao có tác dụng di dưỡng tính tình và mở mang trí thức con người. Kinh Thư có nội dung giúp hậu thế hiểu được tư tưởng cổ nhân về đạo lý, chế độ, phép tắc, và sự tiến hóa của dân tộc Trung Hoa từ đời nọ tới đời kia.
Lễ Nhạc là tên hai bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh Lễ và Kinh Nhạc. Kinh Lễ là bộ sách chép về lễ nghi với mục đích dạy người ta nuôi dưỡng tình cảm, tiết chế được cảm xúc, cũng như giữ được trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Kinh Nhạc là bộ sách viết về âm nhạc nhằm mục đích dùng âm nhạc để giáo dục con người.
Trong đạo hiếu, chữ lễ lại giữ phần tối ư quan trọng. Phụng dưỡng cha mẹ mà không đúng lễ thì không phải là người con có hiếu. Chữ lễ bao gồm từ hình thức nghiêm trang đến tấm lòng thành ái, từ tình cảm thuần hậu đến dũng cảm đúng khuôn phép, từ sự phải trái đến trên dưới có trật tự phân minh, và từ việc tiết chế thất tình (hỉ nộ ai lạc ái ố dục) của con người như vui mừng (hỉ), tức giận (nộ), thương xót (ai), sợ hãi (cụ), yêu thương (ái), ghét bỏ (ố), và ham muốn (dục) đến việc làm thăng hoa đức hòa thuận nhường nhịn và loại trừ sự tranh quyền đoạt lợi một cách bất chính. Vì thế cho nên các nhà giáo dục xưa chủ trương tiên học lễ hậu học văn là vậy. Lễ có cái lợi là ngăn ngừa được việc xấu lúc nó chưa xảy ra. Vì thế các nhà chính trị giỏi thời xưa họ lấy lễ để cai trị dân hơn là dùng pháp luật vì pháp luật chỉ dùng để trừng trị những kẻ đã mắc phải tội lỗi rồi.
Các trường học Bắc Mỹ không có môn luân lý giáo dục và cũng không chủ trương tiên học lễ hậu học văn trong chương trình giáo dục của họ. Mục đích giáo dục của họ là tạo con người thực dụng và giúp con người kiếm được việc làm ngay khi ra trường. Việc làm là trên hết, không cần phải học cao hiểu rộng, miễn sao có việc làm là được. Việc làm, tiền, và quyền lợi quyết định tất cả hành động của họ. Khi chỉ chú trọng vào điều lợi mà thiếu lễ thì con người sẽ trở nên u mê và dễ dàng làm bậy. Chính vì thế mà xã hội của họ có rất nhiều tội phạm.
Trong những cuộc tranh tài về thể thao hay bất cứ cuộc tranh tài nào khác, người Bắc Mỹ đều coi sự thắng là tất cả. Mọi phương tiện chỉ để tạo mục đích thắng mà thôi. Tinh thần thượng võ hầu như lui vào bóng tối, nhất là trong môn khúc côn cầu trên băng (hockey game) và banh húc (football game). Các cầu thủ đều chủ trương húc nhau, đánh nhau, và chơi xấu một cách rất tàn nhẫn với mục đích để hạ đối phương cho bằng được mà không cần tới tinh thần thượng võ. Lý do chính của sự kiện này là thiếu lễ và coi sự thắng là mục đích tối hậu của họ để tự kiêu tự đại.
Vì nhà trường không đề cao chữ lễ và không có môn luân lý giáo dục nên hiện nay người Bắc Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề dạy bảo con em. Vì thấy nguy cơ đã gần kề, chính quyền, nhà trường, và phụ huynh đang cộng tác nghiên cứu để tìm ra phương pháp cải tiến việc giáo dục con em cho tốt đẹp hơn.
Về mặt luân lý, giáo dục của Việt Nam ta trước đây thật là tuyệt vời. Nhờ thế mà con em chúng ta đã được tiếng là giỏi và ngoan trong bao thế hệ học sinh đã qua. Biết bao các em đã làm vẻ vang dân Việt. Sở dĩ được như thế là do người Việt ta có nền tảng vững vàng về hiếu thảo. Người xưa đã quả quyết rằng hiếu thảo là cỗi rễ của mọi nết ăn ở trên đời: lòng hiếu thảo thấu đến trời thì mưa gió thuận mùa, lòng hiếu thảo thấu đến đất thì muôn việc hòa thạnh, và lòng hiếu thấu đến người thì mọi phước đều tuôn đến cho mình.
Kẻ nào không có hiếu thì không những không giúp ích gì cho xã hội được mà còn là loại sâu dân mọt nước nữa. Lý do rất giản dị và dễ hiểu là cha mẹ anh em ruột thịt của họ mà họ không phụng dưỡng săn sóc thì họ còn thương và giúp ích ai được. Những người con có hiếu và biết ơn cha mẹ, phần lớn đều giỏi và làm những điều ích lợi cho gia đình cùng xã hội bởi vì người có hiếu tức là người có lòng nhân. Chính vì thế mà nhà trường ở Việt Nam trước năm 1975 đã chú tâm dạy trẻ về khía cạnh biết ơn cha mẹ một cách rất kỹ càng.
Chúng ta hãy cùng nhau đọc các đoạn văn sau đây được trích ra từ cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư để biết nhà trường của ta trước đây đã đặt nặng việc giáo dục trẻ em về bổn phận làm con và việc biết ơn cha mẹ như thế nào:
Bổn Phận Làm Con
Kể từ khi con mới sinh ra cho đến khi khôn lớn, cha mẹ phải nuôi nấng công trình, kể biết là bao! Mẹ thì nuôi con, bồng bế nâng niu, phải chịu nhiều điều cực khổ. Cha thì đi làm lụng vất vả để lo cho con được no ấm. Cha mẹ lại dạy bảo con và cho con đi học để mở mang trí tuệ. Vậy bổn phận con là phải thờ cha mẹ cho trọn chữ hiếu.
Biết Ơn Cha Mẹ
Phàm người nào đã biết kính yêu cha mẹ tất là biết ơn cha mẹ. Cha mẹ mình sinh ra mình, nuôi dưỡng mình, khó nhọc biết bao nhiêu, lại lo cho mình nên người tử tế, thì công đức ấy kể sao cho xiết được. Vậy kẻ làm con phải dốc lòng báo ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, thì sự biết ơn chỉ cốt ở cách vâng lời và lòng yêu mến. Nhưng khi lớn lên, cha mẹ già cả thì phải biết hết lòng phụng dưỡng: sớm thăm, tối hỏi, cơm ngon, canh ngọt, quạt nồng, ấp lạnh. Chỉ có những quân vô học đê hạ như loài vật thì mới quên ơn cha mẹ.
Nhớ ơn cha mẹ thì phải nuôi cha mẹ khi các người về già. Nuôi cha mẹ không thôi cũng chưa hẳn là có hiếu. Sự kính cha mẹ và sự hòa ái trong khi phụng dưỡng cha mẹ mới là điều chủ yếu. Giữ sự kính ái cả lúc thường cũng như lúc bất thường. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lỗi, con cái phải tìm cách êm dẹp dịu ngọt mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe thì mình vẫn phải giữ lễ và phụng dưỡng sao cho đúng lễ. Nếu phải chịu điều gì đau đớn, vất vả, oan ức, hay thiệt thòi cũng không được oán hận mà bỏ mặc hay không chăm nom cha mẹ. Công ơn cha mẹ đã được bao đời công nhận trong các câu ca dao sau:
Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, / Con nuôi mẹ con kể từng ngày./ Công cha như núi Thái Sơn,/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,/ Một lòng thờ mẹ kính cha, / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
1. Truyền Thống Hiếu Thảo của Người Việt
Ngày xưa các cụ quan niệm rằng hiểu thảo là bổn phận chính của người con trai, nhất là con trai trưởng. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã viết ở phần đầu cuốn truyện mà chúng tôi còn nhớ được như sau: Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu sửa mình (câu 5-6). Người con trai là rường cột trong gia đình sau khi cha mất. Trong khi đó con gái được các cụ coi là nữ nhân ngoại tôïc. Ca dao ta có câu: Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về. Muốn làm tròn chữ hiếu, khi cha mẹ còn sống, ta phải hết lòng nuôi dưỡng; khi cha mẹ mất, ta phải hết lòng thương tiếc. Cha mẹ còn sống ngày nào ta nên mừng ngày đó và ăn ở sao cho trọn đạo làm con, chớ để đến khi cha mẹ mất rồi mới hối thì không kịp. Người ta quan niệm rằng làm con mà có cha mẹ ở bên để báo đáp là điều sung sướng nhất đời. Phải có duyên có phúc mới được như vậy.
Việc hiếu thảo tuy vậy mà rất phức tạp. Những điều người con tưởng là có hiếu nhưng thực ra lại là bất hiếu. Có khi chính cha mẹ tạo hoàn cảnh cho các con làm điều bất hiếu mà không biết. Chính vì vậy người ta mới phân biệt ra minh hiếu và ngu hiếu. Khi thấy cha mẹ làm điều gì trái, ta phải liệu đường can ngăn một cách có lễ độ và khi thấy cha mẹ nóng giận muốn đánh đập ta, ta phải liệu đường trốn tránh và đợi cho đến khi cha mẹ nguôi giận mới giải thích hay xin lỗi cha mẹ thì đó mới là minh hiếu.
Nếu ta chiều theo cha mẹ để về hùa cùng cha mẹ làm điều phi pháp và nếu ta chiều cơn giận của cha mẹ để cho cha mẹ đánh ta đến bị thương tích và có thể nguy đến tính mạng, đó là ngu hiếu. Trong trường hợp này, ta đã làm hại cha mẹ vì để cha mẹ mang tiếng bất từ và cha mẹ ta còn có thể bị vô phúc đáo tụng đình. Ngoài ra, ta cũng hại chính bản thân ta nữa.
Hiện thời dân Việt đang gặp đại nạn Việt Cộng nên đạo hiếu thảo của người Việt bị bọn quỉ đỏ ở trong nước phá hoại đến tận cỗi rễ. Đạo hiếu thảo người Việt hải ngoại cũng bị “văn minh vật chất nước người, làm mờ hiếu thảo làm vơi nghĩa tình.” (Thơ Khải Chính)
a. Tình Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Hải Ngoại Hiện Nay
Khi đến định cư ở Bắc Mỹ, thấy chính phủ của họ có chương trình trợ cấp xã hội và trợ cấp tuổi già, một số các đấng con cái dù là dư tiền nuôi cha mẹ, dù là kỹ sư, bác sĩ, và dược sĩ, cũng vẫn tìm cách này cách khác đẩy các cụ đi xin tiền trợ cấp xã hội. Đây là sự thạât mà chúng tôi đã chứng kiến. Mặt khác, thấy tiền trợ cấp xã hội dễ xin trong khi nhờ các con lại khó khăn, các cụ cũng tự tìm cách đi xin tiền xã hội thay vì nhờ con. Ngoài ra, chính phủ ở đây lại quá dễ dãi về vấn đề trợ cấp xã hội, nên có một số người cho rằng tổ chức xã hội ở Bắc Mỹ đã đồng lõa với tội ác trong việc làm cho con cái bất hiếu. Khi còn vị thành niên, một số con cái không vâng lời cha mẹ, bỏ nhà ra ở riêng vì trông cậy vào tiền trợ cấp xã hội. Khi lớn lên, lại vì tự do, vì quyền lợi cá nhân, một số đông con cái đã phó thác cha mẹ mình cho chính phủ nuôi.
b. Tình Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Trong Nước Hiện Nay
Từ ngày Quỉ Đỏ xuất hiện ở Việt Nam, đầu tiên ở ngoài Bắc, sau ở toàn cõi, người dân học được cái thói bất hiếu của Trường Chinh Đặng Xuân Khu và bè lũ giặc Hồ ly tinh nên các bậc cha mẹ của họ thật khốn khổ. Ca dao ta mới có câu: Ai sinh thằng Khủ thằng Khu, tố chết thằng bác, bỏ từ thằng cha(“thằng Khủ thằng Khu”là Trường Chinh Đặng Xuân Khu). Các đấng cha mẹ bị một cổ hai tròng. Con cái nhiễm thói ăn cắp lừa đảo bất nhân của bọn Cộng Sản nên sinh ra bất hiếu với cha mẹ.
Bọn Cộng Sản là bọn cướp của và bóc lột toàn dân nên những người dân sống dưới chế độ Cộng Sản đều phải có thủ đoạn gian manh mới sống nổi. Họ phải dối trá và lường gạt để sống còn. Chính vì vậy mà những người sống dưới chế độ Cộng Sản Miền Bắc từ năm 1954 đến nay không bao giờ biết nói tiếng “cám ơn” với ai vì có ai ở Miền Bắc làm ơn cho họ đâu. Sống lâu với bọn Cộng Sản, họ đã nhiễm tính dối trá và lường gạt của bọn Cộng Sản cho nên khi vào Miền Nam họ không thể tưởng tượng là dân Miền Nam trước đó đã có cuộc sống văn minh, tự do, dân chủ, nhân quyền, và no ấm đến như thế. Dân Miền Nam có cho họ cái gì họ cũng không hề biết nói tiếng cám ơn. Điều này chứng minh là chế độ Cộng Sản đã phá hủy đến tận cỗi rễ truyền thống biết ơn tốt đẹp của dân ta.
Các bậc cha mẹ bị đảng Cộng Sản, một tổ chức vô nhân tính, bóc lột và làm cho tan nát gia đình nên đã khốn khổ lại càng khốn đốn vô cùng bởi vì tất cả con em của họ đều bị bọn Cộng Sản dụ dỗ và tách ra khỏi ảnh hưởng của gia đình để theo dõi các hành động của cha mẹ. Sau đó, bọn công an phường khóm bắt những con em này phải báo cáo các hành động của cha mẹ chúng để đổi lấy phần thưởng vô luân hão huyền là “cháu ngoan Bác Hồ,” từc là cháu của tên vô liêm sỉ và gian manh Hồ Chí Minh. Cảnh luân thường đạo lý bị đảo lộn thật là đau lòng! Tuy nhiên, với niềm tin vào truyền thống hiếu thảo lâu đời, người Việt chúng ta vẫn có dư nội công thâm hậu để phục hồi đạo hiếu thảo bằng cách thiết lập giềng mối chung chống Cộng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại cho vững mạnh về mọi mặt với mục đích loại trừ bọn quỉ đỏ ở trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.
Ở đâu và ở thời nào, hiếu thảo bao giờ cũng là rường cột của mọi nết ăn ở trên đời. Con người ta nếu có hiếu thảo với cha mẹ ông bà thì thường cũng biết nhớ ơn tiền nhân và có lòng cứu dân giúp nước. Kẻ bất hiếu thì dù nhất thời có khá giả, nhưng sau cùng cũng là loài vô dụng và sâu dân mọt nước.
2. Truyền Thống Biết Ơn Của Người Việt
Truyền thống hiếu thảo thường đi đôi với truyền thống biết ơn. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu truyền thống biết ơn này để từ đó có thể giúp nhau duy trì và phát triển sự biết ơn trong cuộc sống mới cho tốt đẹp hơn. Sự biết ơn của người Việt Nam thường không được bày tỏ một cách lộ liễu như người Bắc Mỹ. Nó không ở đầu môi chót lưỡi mà ở tấm lòng và hành động. Chẳng hạn như có ai giúp ta cái gì ta không tìm cách trả ơn ngay tức khắc mà đợi có dịp nào đó mới đền ơn một cách kín đáo và tế nhị. Có giúp đỡ ai, dân mình cũng giúp một cách kín đáo và khéo léo. Người Bắc Mỹ thì không, chẳng hạn như ta cho họ đi nhờ xe, khi xuống xe họ trả lại ngay ta một đô la tiền xăng. Thế là họ yên lòng.
Dân Việt vốn là dân có truyền thống nhớ ơn từ lâu đời, chẳng hạn như ta thấy có nhiều nơi thờ những bậc có công to với dân với đất nước như Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Đạo, và Phù Đổng Thiên Vương, v.v. Người ta còn nhớ ơn và thờ những vị đã tạo ra một nghề như nghề sơn, nghề khảm, nghề đúc, nghề mộc, v.v., và tôn những vị sáng tạo ra nghề này làm Thánh Sư, Tổ Sư, hay Tiên Sư. Người ta dựng đền hay miếu để thờ các vị này. Hàng năm dân làng tổ chức tế lễ hai lần gọi là “xuân thu nhị kỳ,” tức là tế vào tháng hai thuộc mùa xuân và vào tháng tám thuộc mùa thu. Dân làng còn ăn mừng khi được mùa. Mỗi lần trời cho “hòa cốc phong đăng,” tức là được mùa, thì dân chúng lại mở đại hội, thường là vào tháng hai mỗi năm, để tế lễ tạ ơn thần thánh trời Phật và ăn mừng.
Trong các ngày lễ tết, dân ta thường có lệ đi tết, tức là biếu quà trong dịp tết, để tạ ơn và thắt chặt tình gia đình, nghĩa thầy trò, và mối thân thiện giữa bằng hữu. Con cháu thì đi tết cha mẹ, ông bà, cô, dì, chú, bác, v.v. Học trò đi tết thầy cô. Những người thọ ơn đi tết ân nhân của mình. Ngoài việc đi tết, người ta còn đi lễ chùa, đền, miếu để tạ ơn trời Phật và thánh thần đã ban phước lành cho họ.
Việc tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt được coi là rất quan trọng. Học trò nhớ ơn thầy được thể hiện trong câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Điều này có nghĩa là hễ ai dậy ta một chữ hay nửa chữ cũng là thầy của ta. Ca dao ta còn có câu: Không thầy đố mày làm nên. Việc nhớ ơn thầy và tầm quan trọng của sự giáo huấn đã làm người ta đưa địa vị ông thầy (sư) lên trên địa vị của cha (phụ) trong thứ tự: quân, sư, phụ.
Bổn phận đối với thầy và việc nhớ ơn thầy đã được coi là định luật không thể thay đổi trong xã hội Việt Nam. Nhớ ơn thầy bằng cách thăm nom săn sóc và giúp đỡ thầy. Trong các ngày lễ tết, học trò dù đang học hay đã thôi thọc đều nhớ mua quà đến tết thầy. Bổn phận đối với thầy trong khi học và sau khi thôi học cũng được người Việt ta tôn trọng và coi là một bổn phận thiêng liêng. Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại hai bài học về bổn phận đối với thầy ở trong cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư. Hai bài này trước đây đã được đem vào chương trình giáo dục ở Lớp Sơ Đẳng từ năm 1941.
Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Đang Học
Thầy là người thay cha mẹ mình để dạy bảo mình. Luân lý ta lấy quân, sư, phụ làm trọng hơn cả. Người học trò tốt phải biết ơn thầy, phải tôn kính thầy, phải yêu mến thầy, và phải vâng lời thầy.
Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Thôi Học Rồi
Lúc thôi học rồi, cũng như lúc còn học, bao giờ ta cũng phải yêu kính thầy và biết ơn thầy. Ta phải năng lui tới thăm nom (viếng), lỡ khi thầy đau yếu hay gặp hoạn nạn, ta phải săn sóc giúp đỡ. Ta đừng bắt chước những quân vô hạnh làm nên chút danh phận gì, gặp thầy cũ, lờ đi như không biết, lấy sự phải chào hỏi thầy làm xấu hổ. Như thế là vong ân bội nghĩa rất đáng khinh bỉ.
Chính nhờ có lòng biết ơn và kính trọng thầy nên việc giáo dục của Việt Nam trước đây mới dễ dàng và thành công mỹ mãn đến như thế. Người Việt ta còn có thói quen trong cuộc sống hàng ngày về việc nhớ ơn. Vào các ngày tết, bất cứ tết gì, theo phong tục Việt, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng tổ tiên, ông bà, và cha mẹ khi các người đã qua đời. Ngoài ra, khi đến mùa hoa quả hay thấy của ngon vật lạ, người ta thường mua về để cúng gia tiên trước rồi mới ăn. Đây là cách kính trọng và nhớ ơn ông bà tổ tiên đã thành nếp của dân tộc Việt.

Theo phong tục Việt Nam, sự hiếu thảo và nhớ ơn được coi là một truyền thống cao cả nhất. Hiếu thảo được thể hiện trong việc ân cần, trìu mến, tôn kính, vâng lời, và biết ơn cha mẹ. Tôn kính cha mẹ là phải giữ lễ phép với cha mẹ từ cách ăn nói đến việc đứng ngồi, nhất nhất đều phải giữ gìn ý tứ và không được làm điều gì mất lòng và trái ý cha mẹ.Khi đã kính yêu cha mẹ, người con tất nhiên biết ơn cha mẹ. Sự biết ơn cha mẹ được bày tỏ trong việc phụng dưỡng và sáng viếng tối thăm (thần hôn định tỉnh). Nhớ ơn thân nhân và tha nhân, người ta thường thăm viếng và biếu quà trong các dịp lễ tết. Nhớ ơn người quá cố được thể hiện trong việc giỗ tổ tiên, ông bà, và cha mẹ. Nhớ ơn thần thánh trời Phật được biểu lộ qua việc xây chùa lập đền tế lễ tạ ơn và tổ chức hội hè đình đám. Nhớ ơn các đấng anh hùng liệt nữ và những vị có công với đất nước được cụ thể hóa bằng cách lập đền miếu để thờ và đúc tượng hay dựng đài kỷ niệm để ghi ơn.Điểm đặc biệt về truyền thống hiếu thảo của Việt Nam là nhớ ơn người quá cố bằng cách cúng giỗ và thiết lập từ đường, nhà thờ, chùa chiền, đình, đền, hay miếu để thờ, tế lễ, và mở hội với mục đích tạ ơn hay kỷ niệm ngày thần húy (ngày thần hóa hay mất) và ngày thần đản (ngày thần giáng sinh) của các vị anh hùng có công với đất nước. Người Âu Mỹ không có phong tục này.I. Truyền Thống Hiếu Thảo và Biết Ơn của Người Việt NamNgười Việt Nam rất trọng sự hiếu thảo và đặt hiếu thảo lên hàng đầu của trăm nết tốt (bách hạnh). Chính vì thế mà người xưa đã nói: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên. Vì thiên tính, bậc cha mẹ nào cũng biết yêu thương, nuôi nấng, và dạy bảo con cái hết lòng mà không cần phải học mới biết. Nhưng con cái cần phải được giáo dục mới hiểu công ơn cha mẹ và bổn phận làm con.Người Bắc Mỹ cũng có hiếu với cha mẹ, nhưng đa số có vẻ coi nhẹ chữ hiếu vì họ không được dạy bổn phận phải phụng dưỡng và nuôi nấng cha mẹ khi các người già yếu. Chính vì thế mà khi cha mẹ họ già yếu họ đưa quý cụ vào viện dưỡng lão và phú mặc cho nhà nước nuôi. Chúng ta có được truyền thống tốt đẹp về hiếu thảo là do các nhà giáo dục chân chính ở Việt Nam trước kia đã đưa vào chương trình học đường môn luân lý giáo dục. Những ai có học và được giáo dục phần lớn đều biết hiếu thảo.Trong cuốn Nho Giáo, quyển thượng, Trần Trọng Kim đã viết về cách giáo dục con người như sau: “trước hết dùng Thi Thư mà dạy, lấy hiếu đễ mà giáo dưỡng người, lấy nhân nghĩa mà giảng giải, lấy lễ nhạc giúp người quan sát sự vật, và sau cùng mới lấy văn lấy đức để giáo dục con người cho hoàn hảo.”Thi Thư là tên hai bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh Thi và Kinh Thư. Kinh Thi gồm các bài ca dao có tác dụng di dưỡng tính tình và mở mang trí thức con người. Kinh Thư có nội dung giúp hậu thế hiểu được tư tưởng cổ nhân về đạo lý, chế độ, phép tắc, và sự tiến hóa của dân tộc Trung Hoa từ đời nọ tới đời kia.Lễ Nhạc là tên hai bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh Lễ và Kinh Nhạc. Kinh Lễ là bộ sách chép về lễ nghi với mục đích dạy người ta nuôi dưỡng tình cảm, tiết chế được cảm xúc, cũng như giữ được trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Kinh Nhạc là bộ sách viết về âm nhạc nhằm mục đích dùng âm nhạc để giáo dục con người.Trong đạo hiếu, chữ lễ lại giữ phần tối ư quan trọng. Phụng dưỡng cha mẹ mà không đúng lễ thì không phải là người con có hiếu. Chữ lễ bao gồm từ hình thức nghiêm trang đến tấm lòng thành ái, từ tình cảm thuần hậu đến dũng cảm đúng khuôn phép, từ sự phải trái đến trên dưới có trật tự phân minh, và từ việc tiết chế thất tình (hỉ nộ ai lạc ái ố dục) của con người như vui mừng (hỉ), tức giận (nộ), thương xót (ai), sợ hãi (cụ), yêu thương (ái), ghét bỏ (ố), và ham muốn (dục) đến việc làm thăng hoa đức hòa thuận nhường nhịn và loại trừ sự tranh quyền đoạt lợi một cách bất chính. Vì thế cho nên các nhà giáo dục xưa chủ trương tiên học lễ hậu học văn là vậy. Lễ có cái lợi là ngăn ngừa được việc xấu lúc nó chưa xảy ra. Vì thế các nhà chính trị giỏi thời xưa họ lấy lễ để cai trị dân hơn là dùng pháp luật vì pháp luật chỉ dùng để trừng trị những kẻ đã mắc phải tội lỗi rồi.Các trường học Bắc Mỹ không có môn luân lý giáo dục và cũng không chủ trương tiên học lễ hậu học văn trong chương trình giáo dục của họ. Mục đích giáo dục của họ là tạo con người thực dụng và giúp con người kiếm được việc làm ngay khi ra trường. Việc làm là trên hết, không cần phải học cao hiểu rộng, miễn sao có việc làm là được. Việc làm, tiền, và quyền lợi quyết định tất cả hành động của họ. Khi chỉ chú trọng vào điều lợi mà thiếu lễ thì con người sẽ trở nên u mê và dễ dàng làm bậy. Chính vì thế mà xã hội của họ có rất nhiều tội phạm.Trong những cuộc tranh tài về thể thao hay bất cứ cuộc tranh tài nào khác, người Bắc Mỹ đều coi sự thắng là tất cả. Mọi phương tiện chỉ để tạo mục đích thắng mà thôi. Tinh thần thượng võ hầu như lui vào bóng tối, nhất là trong môn khúc côn cầu trên băng (hockey game) và banh húc (football game). Các cầu thủ đều chủ trương húc nhau, đánh nhau, và chơi xấu một cách rất tàn nhẫn với mục đích để hạ đối phương cho bằng được mà không cần tới tinh thần thượng võ. Lý do chính của sự kiện này là thiếu lễ và coi sự thắng là mục đích tối hậu của họ để tự kiêu tự đại.Vì nhà trường không đề cao chữ lễ và không có môn luân lý giáo dục nên hiện nay người Bắc Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề dạy bảo con em. Vì thấy nguy cơ đã gần kề, chính quyền, nhà trường, và phụ huynh đang cộng tác nghiên cứu để tìm ra phương pháp cải tiến việc giáo dục con em cho tốt đẹp hơn.Về mặt luân lý, giáo dục của Việt Nam ta trước đây thật là tuyệt vời. Nhờ thế mà con em chúng ta đã được tiếng là giỏi và ngoan trong bao thế hệ học sinh đã qua. Biết bao các em đã làm vẻ vang dân Việt. Sở dĩ được như thế là do người Việt ta có nền tảng vững vàng về hiếu thảo. Người xưa đã quả quyết rằng hiếu thảo là cỗi rễ của mọi nết ăn ở trên đời: lòng hiếu thảo thấu đến trời thì mưa gió thuận mùa, lòng hiếu thảo thấu đến đất thì muôn việc hòa thạnh, và lòng hiếu thấu đến người thì mọi phước đều tuôn đến cho mình.Kẻ nào không có hiếu thì không những không giúp ích gì cho xã hội được mà còn là loại sâu dân mọt nước nữa. Lý do rất giản dị và dễ hiểu là cha mẹ anh em ruột thịt của họ mà họ không phụng dưỡng săn sóc thì họ còn thương và giúp ích ai được. Những người con có hiếu và biết ơn cha mẹ, phần lớn đều giỏi và làm những điều ích lợi cho gia đình cùng xã hội bởi vì người có hiếu tức là người có lòng nhân. Chính vì thế mà nhà trường ở Việt Nam trước năm 1975 đã chú tâm dạy trẻ về khía cạnh biết ơn cha mẹ một cách rất kỹ càng.Chúng ta hãy cùng nhau đọc các đoạn văn sau đây được trích ra từ cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư để biết nhà trường của ta trước đây đã đặt nặng việc giáo dục trẻ em về bổn phận làm con và việc biết ơn cha mẹ như thế nào:Bổn Phận Làm ConKể từ khi con mới sinh ra cho đến khi khôn lớn, cha mẹ phải nuôi nấng công trình, kể biết là bao! Mẹ thì nuôi con, bồng bế nâng niu, phải chịu nhiều điều cực khổ. Cha thì đi làm lụng vất vả để lo cho con được no ấm. Cha mẹ lại dạy bảo con và cho con đi học để mở mang trí tuệ. Vậy bổn phận con là phải thờ cha mẹ cho trọn chữ hiếu.Biết Ơn Cha MẹPhàm người nào đã biết kính yêu cha mẹ tất là biết ơn cha mẹ. Cha mẹ mình sinh ra mình, nuôi dưỡng mình, khó nhọc biết bao nhiêu, lại lo cho mình nên người tử tế, thì công đức ấy kể sao cho xiết được. Vậy kẻ làm con phải dốc lòng báo ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, thì sự biết ơn chỉ cốt ở cách vâng lời và lòng yêu mến. Nhưng khi lớn lên, cha mẹ già cả thì phải biết hết lòng phụng dưỡng: sớm thăm, tối hỏi, cơm ngon, canh ngọt, quạt nồng, ấp lạnh. Chỉ có những quân vô học đê hạ như loài vật thì mới quên ơn cha mẹ.Nhớ ơn cha mẹ thì phải nuôi cha mẹ khi các người về già. Nuôi cha mẹ không thôi cũng chưa hẳn là có hiếu. Sự kính cha mẹ và sự hòa ái trong khi phụng dưỡng cha mẹ mới là điều chủ yếu. Giữ sự kính ái cả lúc thường cũng như lúc bất thường. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lỗi, con cái phải tìm cách êm dẹp dịu ngọt mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe thì mình vẫn phải giữ lễ và phụng dưỡng sao cho đúng lễ. Nếu phải chịu điều gì đau đớn, vất vả, oan ức, hay thiệt thòi cũng không được oán hận mà bỏ mặc hay không chăm nom cha mẹ. Công ơn cha mẹ đã được bao đời công nhận trong các câu ca dao sau:Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, / Con nuôi mẹ con kể từng ngày./ Công cha như núi Thái Sơn,/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,/ Một lòng thờ mẹ kính cha, / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.1. Truyền Thống Hiếu Thảo của Người ViệtNgày xưa các cụ quan niệm rằng hiểu thảo là bổn phận chính của người con trai, nhất là con trai trưởng. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã viết ở phần đầu cuốn truyện mà chúng tôi còn nhớ được như sau: Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu sửa mình (câu 5-6). Người con trai là rường cột trong gia đình sau khi cha mất. Trong khi đó con gái được các cụ coi là nữ nhân ngoại tôïc. Ca dao ta có câu: Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về. Muốn làm tròn chữ hiếu, khi cha mẹ còn sống, ta phải hết lòng nuôi dưỡng; khi cha mẹ mất, ta phải hết lòng thương tiếc. Cha mẹ còn sống ngày nào ta nên mừng ngày đó và ăn ở sao cho trọn đạo làm con, chớ để đến khi cha mẹ mất rồi mới hối thì không kịp. Người ta quan niệm rằng làm con mà có cha mẹ ở bên để báo đáp là điều sung sướng nhất đời. Phải có duyên có phúc mới được như vậy.Việc hiếu thảo tuy vậy mà rất phức tạp. Những điều người con tưởng là có hiếu nhưng thực ra lại là bất hiếu. Có khi chính cha mẹ tạo hoàn cảnh cho các con làm điều bất hiếu mà không biết. Chính vì vậy người ta mới phân biệt ra minh hiếu và ngu hiếu. Khi thấy cha mẹ làm điều gì trái, ta phải liệu đường can ngăn một cách có lễ độ và khi thấy cha mẹ nóng giận muốn đánh đập ta, ta phải liệu đường trốn tránh và đợi cho đến khi cha mẹ nguôi giận mới giải thích hay xin lỗi cha mẹ thì đó mới là minh hiếu.Nếu ta chiều theo cha mẹ để về hùa cùng cha mẹ làm điều phi pháp và nếu ta chiều cơn giận của cha mẹ để cho cha mẹ đánh ta đến bị thương tích và có thể nguy đến tính mạng, đó là ngu hiếu. Trong trường hợp này, ta đã làm hại cha mẹ vì để cha mẹ mang tiếng bất từ và cha mẹ ta còn có thể bị vô phúc đáo tụng đình. Ngoài ra, ta cũng hại chính bản thân ta nữa.Hiện thời dân Việt đang gặp đại nạn Việt Cộng nên đạo hiếu thảo của người Việt bị bọn quỉ đỏ ở trong nước phá hoại đến tận cỗi rễ. Đạo hiếu thảo người Việt hải ngoại cũng bị “văn minh vật chất nước người, làm mờ hiếu thảo làm vơi nghĩa tình.” (Thơ Khải Chính)a. Tình Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Hải Ngoại Hiện NayKhi đến định cư ở Bắc Mỹ, thấy chính phủ của họ có chương trình trợ cấp xã hội và trợ cấp tuổi già, một số các đấng con cái dù là dư tiền nuôi cha mẹ, dù là kỹ sư, bác sĩ, và dược sĩ, cũng vẫn tìm cách này cách khác đẩy các cụ đi xin tiền trợ cấp xã hội. Đây là sự thạât mà chúng tôi đã chứng kiến. Mặt khác, thấy tiền trợ cấp xã hội dễ xin trong khi nhờ các con lại khó khăn, các cụ cũng tự tìm cách đi xin tiền xã hội thay vì nhờ con. Ngoài ra, chính phủ ở đây lại quá dễ dãi về vấn đề trợ cấp xã hội, nên có một số người cho rằng tổ chức xã hội ở Bắc Mỹ đã đồng lõa với tội ác trong việc làm cho con cái bất hiếu. Khi còn vị thành niên, một số con cái không vâng lời cha mẹ, bỏ nhà ra ở riêng vì trông cậy vào tiền trợ cấp xã hội. Khi lớn lên, lại vì tự do, vì quyền lợi cá nhân, một số đông con cái đã phó thác cha mẹ mình cho chính phủ nuôi.b. Tình Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Trong Nước Hiện NayTừ ngày Quỉ Đỏ xuất hiện ở Việt Nam, đầu tiên ở ngoài Bắc, sau ở toàn cõi, người dân học được cái thói bất hiếu của Trường Chinh Đặng Xuân Khu và bè lũ giặc Hồ ly tinh nên các bậc cha mẹ của họ thật khốn khổ. Ca dao ta mới có câu: Ai sinh thằng Khủ thằng Khu, tố chết thằng bác, bỏ từ thằng cha(“thằng Khủ thằng Khu”là Trường Chinh Đặng Xuân Khu). Các đấng cha mẹ bị một cổ hai tròng. Con cái nhiễm thói ăn cắp lừa đảo bất nhân của bọn Cộng Sản nên sinh ra bất hiếu với cha mẹ.Bọn Cộng Sản là bọn cướp của và bóc lột toàn dân nên những người dân sống dưới chế độ Cộng Sản đều phải có thủ đoạn gian manh mới sống nổi. Họ phải dối trá và lường gạt để sống còn. Chính vì vậy mà những người sống dưới chế độ Cộng Sản Miền Bắc từ năm 1954 đến nay không bao giờ biết nói tiếng “cám ơn” với ai vì có ai ở Miền Bắc làm ơn cho họ đâu. Sống lâu với bọn Cộng Sản, họ đã nhiễm tính dối trá và lường gạt của bọn Cộng Sản cho nên khi vào Miền Nam họ không thể tưởng tượng là dân Miền Nam trước đó đã có cuộc sống văn minh, tự do, dân chủ, nhân quyền, và no ấm đến như thế. Dân Miền Nam có cho họ cái gì họ cũng không hề biết nói tiếng cám ơn. Điều này chứng minh là chế độ Cộng Sản đã phá hủy đến tận cỗi rễ truyền thống biết ơn tốt đẹp của dân ta.Các bậc cha mẹ bị đảng Cộng Sản, một tổ chức vô nhân tính, bóc lột và làm cho tan nát gia đình nên đã khốn khổ lại càng khốn đốn vô cùng bởi vì tất cả con em của họ đều bị bọn Cộng Sản dụ dỗ và tách ra khỏi ảnh hưởng của gia đình để theo dõi các hành động của cha mẹ. Sau đó, bọn công an phường khóm bắt những con em này phải báo cáo các hành động của cha mẹ chúng để đổi lấy phần thưởng vô luân hão huyền là “cháu ngoan Bác Hồ,” từc là cháu của tên vô liêm sỉ và gian manh Hồ Chí Minh. Cảnh luân thường đạo lý bị đảo lộn thật là đau lòng! Tuy nhiên, với niềm tin vào truyền thống hiếu thảo lâu đời, người Việt chúng ta vẫn có dư nội công thâm hậu để phục hồi đạo hiếu thảo bằng cách thiết lập giềng mối chung chống Cộng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại cho vững mạnh về mọi mặt với mục đích loại trừ bọn quỉ đỏ ở trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.Ở đâu và ở thời nào, hiếu thảo bao giờ cũng là rường cột của mọi nết ăn ở trên đời. Con người ta nếu có hiếu thảo với cha mẹ ông bà thì thường cũng biết nhớ ơn tiền nhân và có lòng cứu dân giúp nước. Kẻ bất hiếu thì dù nhất thời có khá giả, nhưng sau cùng cũng là loài vô dụng và sâu dân mọt nước.2. Truyền Thống Biết Ơn Của Người ViệtTruyền thống hiếu thảo thường đi đôi với truyền thống biết ơn. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu truyền thống biết ơn này để từ đó có thể giúp nhau duy trì và phát triển sự biết ơn trong cuộc sống mới cho tốt đẹp hơn. Sự biết ơn của người Việt Nam thường không được bày tỏ một cách lộ liễu như người Bắc Mỹ. Nó không ở đầu môi chót lưỡi mà ở tấm lòng và hành động. Chẳng hạn như có ai giúp ta cái gì ta không tìm cách trả ơn ngay tức khắc mà đợi có dịp nào đó mới đền ơn một cách kín đáo và tế nhị. Có giúp đỡ ai, dân mình cũng giúp một cách kín đáo và khéo léo. Người Bắc Mỹ thì không, chẳng hạn như ta cho họ đi nhờ xe, khi xuống xe họ trả lại ngay ta một đô la tiền xăng. Thế là họ yên lòng.Dân Việt vốn là dân có truyền thống nhớ ơn từ lâu đời, chẳng hạn như ta thấy có nhiều nơi thờ những bậc có công to với dân với đất nước như Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Đạo, và Phù Đổng Thiên Vương, v.v. Người ta còn nhớ ơn và thờ những vị đã tạo ra một nghề như nghề sơn, nghề khảm, nghề đúc, nghề mộc, v.v., và tôn những vị sáng tạo ra nghề này làm Thánh Sư, Tổ Sư, hay Tiên Sư. Người ta dựng đền hay miếu để thờ các vị này. Hàng năm dân làng tổ chức tế lễ hai lần gọi là “xuân thu nhị kỳ,” tức là tế vào tháng hai thuộc mùa xuân và vào tháng tám thuộc mùa thu. Dân làng còn ăn mừng khi được mùa. Mỗi lần trời cho “hòa cốc phong đăng,” tức là được mùa, thì dân chúng lại mở đại hội, thường là vào tháng hai mỗi năm, để tế lễ tạ ơn thần thánh trời Phật và ăn mừng.Trong các ngày lễ tết, dân ta thường có lệ đi tết, tức là biếu quà trong dịp tết, để tạ ơn và thắt chặt tình gia đình, nghĩa thầy trò, và mối thân thiện giữa bằng hữu. Con cháu thì đi tết cha mẹ, ông bà, cô, dì, chú, bác, v.v. Học trò đi tết thầy cô. Những người thọ ơn đi tết ân nhân của mình. Ngoài việc đi tết, người ta còn đi lễ chùa, đền, miếu để tạ ơn trời Phật và thánh thần đã ban phước lành cho họ.Việc tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt được coi là rất quan trọng. Học trò nhớ ơn thầy được thể hiện trong câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Điều này có nghĩa là hễ ai dậy ta một chữ hay nửa chữ cũng là thầy của ta. Ca dao ta còn có câu: Không thầy đố mày làm nên. Việc nhớ ơn thầy và tầm quan trọng của sự giáo huấn đã làm người ta đưa địa vị ông thầy (sư) lên trên địa vị của cha (phụ) trong thứ tự: quân, sư, phụ.Bổn phận đối với thầy và việc nhớ ơn thầy đã được coi là định luật không thể thay đổi trong xã hội Việt Nam. Nhớ ơn thầy bằng cách thăm nom săn sóc và giúp đỡ thầy. Trong các ngày lễ tết, học trò dù đang học hay đã thôi thọc đều nhớ mua quà đến tết thầy. Bổn phận đối với thầy trong khi học và sau khi thôi học cũng được người Việt ta tôn trọng và coi là một bổn phận thiêng liêng. Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại hai bài học về bổn phận đối với thầy ở trong cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư. Hai bài này trước đây đã được đem vào chương trình giáo dục ở Lớp Sơ Đẳng từ năm 1941.Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Đang HọcThầy là người thay cha mẹ mình để dạy bảo mình. Luân lý ta lấy quân, sư, phụ làm trọng hơn cả. Người học trò tốt phải biết ơn thầy, phải tôn kính thầy, phải yêu mến thầy, và phải vâng lời thầy.Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Thôi Học RồiLúc thôi học rồi, cũng như lúc còn học, bao giờ ta cũng phải yêu kính thầy và biết ơn thầy. Ta phải năng lui tới thăm nom (viếng), lỡ khi thầy đau yếu hay gặp hoạn nạn, ta phải săn sóc giúp đỡ. Ta đừng bắt chước những quân vô hạnh làm nên chút danh phận gì, gặp thầy cũ, lờ đi như không biết, lấy sự phải chào hỏi thầy làm xấu hổ. Như thế là vong ân bội nghĩa rất đáng khinh bỉ.Chính nhờ có lòng biết ơn và kính trọng thầy nên việc giáo dục của Việt Nam trước đây mới dễ dàng và thành công mỹ mãn đến như thế. Người Việt ta còn có thói quen trong cuộc sống hàng ngày về việc nhớ ơn. Vào các ngày tết, bất cứ tết gì, theo phong tục Việt, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng tổ tiên, ông bà, và cha mẹ khi các người đã qua đời. Ngoài ra, khi đến mùa hoa quả hay thấy của ngon vật lạ, người ta thường mua về để cúng gia tiên trước rồi mới ăn. Đây là cách kính trọng và nhớ ơn ông bà tổ tiên đã thành nếp của dân tộc Việt.

Từ việc cúng cơm người quá cố đến việc để tang, giỗ tết, tế lễ, đốt vàng mã, và cúng lễ trong ngày rằm tháng bảy âm lịch, Lễ Vu Lan, tức là ngày xá tội vong nhân mà ngày nay người ta gọi là mùa báo hiếu, v.v., hết thẩy đều thể hiện tấm lòng thành và nhớ ơn tiền nhân. Ý nghĩa đó được gói ghém trong các câu tục ngữ : Uống nước phải nhớ đến nguồn, / Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, / Uống nước nhớ kẻ đào giếng.
Ngoài ra, việc xưng hô trong tiếng Việt cũng phản ảnh tấm lòng hiếu thảo, biết ơn, và tôn ti trật tự trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội. Việc thưa gửi, đi thưa về trình, và gọi dạ bảo vâng trong phong tục của người Việt chúng ta lại càng tế nhị và văn minh, nhất là trong vấn đề kính trọng, nhớ ơn, và hiếu thảo. Phải có nền văn hóa lâu đời người ta mới đạt đến trình độ xưng hô, kính trọng, nhớ ơn, và hiếu thảo đến như vậy.
Truyền thống hiếu thảo và biết ơn của người Việt chúng ta đã có nền tảng từ lâu đời, gần 5 ngàn năm trước. Người Hoa Kỳ mới có văn hóa riêng cho Hợp Chủng Quốc kể từ năm 1776, tức là cách đây (2003) 227 năm nay. Người Canada mới được độc lập từ năm 1867, tức là cách đây (2003) 136 năm mà thôi. Chính vì thế mà nếp sống và văn hóa của họ còn phôi thai, đang trên đà củng cổ để thành nề nếp. Họ không có nền tảng gia đình vững vàng như dân Việt ta. Chính phủ của họ phải đứng ra lo cho người già.Vì thế mà lòng hiếu thảo của con cái không có chỗ đứng. Theo văn hóa của Bắc Mỹ, ta có thể nói trẻ cậy cha mẹ và chính phủ, già thì chỉ trông cậy vào chính phủ không mà thôi.
Ở Việt Nam ta, trước 1975, các chính phủ Quốc Gia không để ý đến vấn đề người già mấy, không có chương trình trợ cấp tiền già như ở Bắc Mỹ này vì con cái và gia đình đều tự lo cho cha mẹ và ông bà. Sự hợp lý và công bằng từ nền tảng gia đình Việt Nam về việc cha mẹ và con cái giúp đỡ nhau đã được chứng minh trong câu tục ngữ: Trẻ cậy cha già cậy con.
II. Truyền Thống Hiếu Thảo và Nhớ Ơn của Người Bắc Mỹ
Trên đây chúng tôi đã so sánh một vài khía cạnh giữa sự hiếu thảo và biết ơn của người Việt và người Bắc Mỹ. Để hiểu rõ hơn sự hiếu thảo và biết ơn của ngưới Bắc Mỹ, chúng ta cần phải đi sâu vào một số vấn đền cụ thể dưới đây.
Cũng giống như người Việt Nam ta, người Bắc Mỹ có truyền thống hiếu thảo và nhớ ơn nhưng không được sâu xa, tế nhị, và thành nếp như truyền thống hiếu thảo của Việt Nam ta. Trong kho tàng sách vở và ngôn ngữ của người Bắc Mỹ, không có những sách dạy về việc hiếu thảo.
Người Bắc Mỹ có óc thực tế, tôn trọng tự do và đời tư cá nhân nên cách nhớ ơn của họ rất là sòng phẳng: có ăn có trả. Vì tôn trọng tự do và đời tư cá nhân nên mối liên hệ đại gia đình và tình hàng xóm thật là hời hợt. Chính vì thế cho nên việc nhớ ơn và sự hiếu thảo của họ không được coi trọng như ở Việt Nam ta. Có lẽ vì xã hội Bắc Mỹ có chương trình trợ cấp xã hội và bao dịch vụ giúp đỡ người già nên con cái ỷ vào đó để lơ là bổn phận làm con.
Ở Việt Nam ta có bao giờ bố mẹ đi kiện con cái để đòi tiền cấp dưỡng đâu. Con cái có biếu bố mẹ cái gì, kể cả tiền bacï, nếu không biếu đúng cách thì các cụ cũng không thèm nhận. Không cứ là ở trong gia đình mà cả ở ngoài xã hội cũng vậy, người Việt ta đều có quan niệm là của cho không bằng cách cho, và lời chào cao hơn mâm cỗ. Có nhiều người con vì sơ ý trong cách biếu quà cha mẹ nên các cụ không chịu nhận. Có nhiều trường hợp, các con đã phải năn nỉ và xin lỗi mãi các cụ mới chịu nhận cho. Ở Việt Nam ta rất hiếm có trường hợp con cái tính chuyện giết cha mẹ để cướp của. Ở Bắc Mỹ này, đó là việc thường xảy ra. Người Việt ta coi việc đem nhau ra tòa là chuyện vô phúc. Vì thế, các cụ ta mới có câu “vô phúc đáo tụng đình” là vậy.
Ở Bắc Mỹ, chuyện cha mẹ và con cái thưa nhau ra tòa không phải là việc hiếm. Theo tờ The London Free Press, số ngày 31-8-1995, vào ngày 30-8-1995, một tòa án ở St. Catharines, Ontario, Canada, đã ra lệnh cho bốn người con phải trợ cấp mỗi tháng một ngàn đồng cho người mẹ già 60 tuổi tên là bà Veronica Godwin. Theo The London Free Press số ngày 24-10-1996, một trường hợp khác đã xảy ra ở trường Đại Học Ottawa, Canada, là vào ngày 23-10-96, Giáo Sư Henry Edwards, 57 tuổi, khoa trưởng phân khoa xã hội (the dean of the faculty of social sciences) đã bị bắt về tội âm mưu giết mẹ bằng thuốc ngủ.
Nghe thấy những chuyện trên đây, chắc hẳn mọi người Việt chúng ta đều thấy ngao ngán cho tình nghĩa giữa cha mẹ và con cái ở đất Bắc Mỹ này. Xã hội Bắc Mỹ đang khủng hoảng về mặt giáo dục con em. Luân lý và đạo đức đang trên đà băng hoại một cách đáng lo ngại. Trên báo The London Free Press, ngày 28-11-1996, trong bài “Parents Not Only Ones to Blame for Troubled Teens,” ông Bob Harvey đã lập lại ý kiến của một số chuyên gia cho là họ đang sống trong một xã hội mà giá trị đạo đức không còn được truyền dạy cho con em nữa.
Ông Bob Harvey còn trình bày ý kiến của Giáo Sư Robert Glossop thuộc Học Viện Vanier ở Ottawa liên quan về vấn đề gia đình như sau: Việc chửa hoang của các thiếu nữ vị thành niên, việc bạo động của tuổi trẻ, và các trường hợp tự tử của thanh thiếu niên đang xảy ra là do ở vấn đề thiếu đạo đức và thiếu sự chú tâm vào bình diện luân lý trong xã hội chúng ta.
Ông Bob Harvery cũng thuật lại lời của ông Bill Damon, giám đốc trung tâm Center for Human Development của trường Đại Học Brown University ở Rhode Island, với đại ý là không phải tất cả mọi con em chúng ta đều tệ cả. Có rất nhiều em đang cố gắng vươn lên. Nhưng những gì các thanh thiếu niên đang làm trong xã hội hiện nay chứng tỏ là xã hội chúng ta đang đi thụt lùi ít nhất là cả một thế hệ. Tuy nhiên, những nhà giáo dục ở đây đang cố gắng lo cải tổ việc giáo dục và tìm phương pháp mới để dạy học sinh về giá trị đạo đức, chẳng hạn như lòng thương người, tính ngay thẳng, và sữ công bằng.
Vào đầu năm 2000, bà Janet Ecker, Bộ Trưởng Giáo Dục tỉnh bang Ontario, Canada, đã đưa ra một chương trình cải tổ giảo dục một cách qui mô nhằm đạt tới một nền giáo dục công lập có phẩm chất cao về mọi mặt, nhất là về việc khuyến khích và phát triển sự kính trọng (kính trên trọng dưới), tinh thần trách nhiệm, và phép lịch sự giữa học sinh và nhà trường, giữa học sinh và gia đình, và giữa học sinh và cộng đồng xã hội. Chúng tôi cũng đã được bà Bộ Trưởng Janet Ecker gửi thư tham khảo ý kiến. Nhân dịp này chúng tôi đã đề nghị với bà cho thiết lập một trung tâm tu nghiệp giáo chức để giúp thầy cô cải thiện về kiến thức và phương pháp giáo dục.
Để giúp học sinh trở thành những học trò giỏi và có kỷ luật, những đứa con ngoan và hiếu thảo, và những công dân tốt và gương mẫu, chúng tôi đã đề nghị với bà Bộ Trưởng Janet Ecker đưa vào chương trình giáo dục học đường hai môn học: công dân giáo dục và luân lý giáo dục. Chúng tôi có nhấn mạnh vào mục đích của việc tiên học lễ hậu học văn và giải thích với bà ta là kỷ luật hay luật pháp chỉ dùng để trừng trị những người đã vi phạm kỷ luật hay phạm pháp, còn lễ, tức lễ phép và lịch sự, có công dụng giúp học sinh trở nên học trò tốt, con ngoan, và công dân gương mẫu, nhiên hậu chúng tránh được việc vi phạm kỷ luật hay phạm pháp. Muốn học sinh có lễ phép và lịch sự, ta phải dạy chúng ngay khi chúng còn nhỏ, tức là trong lúc chúng còn ở trên ghế nhà trường và còn ở trong gia đình. Lễ là rường cột của mọi lẽ ăn ở trên đời vì một người có kiến thức cao và chuyên môn giỏi mà vô lễ thì sẽ trở thành loại sâu dân mọt nước.
Cũng trên tờ The London Free Press, số ngày 28-11-1996, có tin là ở thành phố Wellesley, Massachusetts, các thương gia, cảnh sát, các cơ quan tryền thông, các nhà giáo dục, và các hội nhà thờ đã và đang bắt đầu tìm giải pháp cho các vấn đề thiếu nữ chửa hoang ở tuổi vị thành niên, việc phá phách và bạo động của thanh thiếu niên, sự nghiện rượu và xì ke ma túy, cùng việc bỏ học hay thiếu siêng năng của các học sinh. Ở thành phố St. Louis, Minnesota, người ta có chương trình sử dụng quí vị cao niên trông chừng hành động của thanh thiếu niên. Quí cụ ra đón các em tại trạm school bus rồi tổ chức các sinh hoạt sau giờ học cho các thanh thiếu niên để giúp các em sử dụng thì giờ một cách hữu ích và thích thú.
Để tạo cho các em có tình thương cha mẹ và thương tha nhân, các người con hiếu thảo, các công dân gương mẫu, và các nhà giáo dục Bắc Mỹ đã đặt ra Ngày Báo Hiếu Mẹ (Mother’s Day) và Ngày Báo Hiếu Cha (Father’s Day) để các đấng con cái có được dịp nghĩ về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Để giáo dục con em về lòng biết ơn, các nhà giáo dục và những người quan tâm đến tương lai trẻ đã tạo cơ hội cho chúng biết coi trọng ngày sinh nhật (birthday), ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day), Lễ Giáng Sinh, và Tết Tây. Trong những dịp này người ta đã tạo cho trẻ có thói quen về việc bày tỏ tấm lòng biết ơn và săn sóc nhau một cách chân thành, đồng thời họ cũng vui hưởng cho mình một cách thỏa thích.
Một điều rất nổi bật là dân chúng Bắc Mỹ có lòng vị tha thật cao cả, chân thành, và đầy tình nghĩa. Nhờ có tinh thần thiện nguyện và lòng vị tha thật cao cả này nên chính phủ, các hội từ thiện, các hội nhà thờ, và dân chúng Bắc Mỹ đã đứng ra bảo lãnh và cưu mang hàng triệu người tỵ nạn Cộng Sản chúng ta. Lòng vị tha và tinh thần thiện nguyện của người Việt Nam ta chưa bằng họ. Quan niệm của dân Việt ta là giọt máu đào hơn ao nước lã.
Người Bắc Mỹ cũng biết nhớ ơn các vị anh hùng tử sĩ, những người đã hy sinh vì lý tưởng bảo vệ tự do và hòa bình cho nhân loại. Chính vì thế mà họ đã từng tổ chức long trọng Ngày Chiên Sĩ Trận Vong trên toàn quốc của họ. Vì đa số theo đạo Thiên Chúa, dân Bắc Mỹ còn biết ơn trời và các vị thánh thần đã ban cho họ đất đai màu mỡ, có dư đồ ăn thức uống, và nhất là đất nước của họ rất mực thanh bình thịnh trị. Để tạ ơn trời và thánh thần đã ban phước cho họ, hàng năm họ tổ chức cầu nguyện và ăn mừng vào Ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day). Hơn nữa, trong mỗi bữa cơm tại gia đình và các bữa tiệc ngoài xã hội, họ đều có dâng lời tạ ơn chúa về những ân sủng mà họ đã và đang được hưởng. Cử chỉ tỏ lòng biết ơn này đã thành nếp vì được các trường theo đạo Thiên Chúa dạy cho những học sinh ngay từ các lớp mẫu giáo trở lên.
Đã đến định cư ở các nước Bắc Mỹ, có một số ngưới chủ trương nên tìm hiểu về truyền thống hiếu thảo và các ngày nhớ ơn ở đây để cùng nhau hòa nhịp vào nếp sống chung một cách có ý nghĩa và đồng thời làm tăng thêm tình nhân loại thân thương mà tiền nhân đã bỏ bao công trình vun đắp. Ngoài việc giữ cái hay cái đẹp của mình, chúng ta cũng cần học thêm cái hay cái đẹp của người để làm giầu cho truyền thống tốt đẹp về lòng hiếu thảo và biết ơn của ta.
A. Truyền Thống Hiếu Thảo Của Người Bắc Mỹ
Như trên đã nói, người Bắc Mỹ vì quá nặng về nếp sống tự do và rất trọng sự riêng tư của đời sống cá nhân nên tình đại gia đình rất hời hợt. Tuy nhiên, nhờ có các người con hiếu thảo, các công dân gương mẫu, người ta đã tìm cách để nhắc nhở tha nhân về bổn phận đối với cha mẹ. Chính vì thế mà các Ngày Báo Hiếu Mẹ (Mother’s Day) và Ngày Báo Hiếu Cha (Father’s Day) mới được được đặt ra.
1. Ngày Mother’s Day (Ngày Báo Hiếu Mẹ)
Ngày Mother’s Day được người Bắc Mỹ đặt ra để hàng năm vinh danh tình mẫu tử vào ngày chủ nhật thứ hai trong tháng năm. Vào ngày này, nhiều nhà thờ cũng như các gia đình đều mở tiệc để ca ngợi công lao của các bà mẹ. Người ta có tục lệ gắn hoa cẩm chướng (carnation) cho nhau. Bông cẩm chướng màu hồng hay tím được gắn trên ngực là dấu hiệu mẹ còn sống, bông cẩm chướng màu trắng là dấu hiệu mẹ đã qua đời. Tục gắn hoa cẩm chướng này chỉ áp dụng cho ngày Mother’s Day mà thôi.
Vào thời xa xưa, ngày Mother’s Day được tổ chức lần đầu tiên ở Anh (England) dưới cái tên là Mothering Sunday, có nghĩa là ngày ghi ơn sự săn sóc nuôi dưởng của người mẹ đối với con cái. Tuy nhiên, không có tài liệu nào nói rõ là ngày Mothering Suday đã được tổ chức vào ngày nào. Sau đó các nước khác cũng tổ chức những ngày tương tự như vậy.
Ở Hoa Kỳ, vào năm 1872, bà Julia Ward Howe là người đầu tiên đề nghị tổ chức ngày Mother’s Day vào mùng 2 tháng sáu Tây để dâng hiến cho hòa bình nhân loại. Sau đó, vào năm 1907, bà Anna Jarvis ở thành phố Grafton, W. Virginia, Hoa Kỳ, đứng ra vận động để ngày Mother’s Day được chính thức công nhận trên toàn quốc Hoa Kỳ. Bà đã đề nghị chọn ngày Chủ Nhật thứ hai trong tháng 5 dương lịch, không thấy nói rõ lý do tại sao, để làm ngày Mother’s Day. Tục lệ đeo hoa cẩm chướng cũng bắt đầu từ đây. Bà Anna Jarvis được phái đoàn của nhà thờ Andrews Church đưa ra quyết nghị công nhận là người sáng lập ra ngày Mother’s Day.
Vào năm 1914, vị tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ, Tổng Thống Woodrow Wilson, đã phê chuẩn nghị quyết của Quốc Hội Hoa Kỳ về việc chấp thuận ngày Mother’s Day. Năm sau đó, 1915, Tổng Thống Wilson tuyên bố với quốc dân chính thức chấp nhận ngày Mother’s Day là ngày lễ hàng năm tại Hoa Kỳ. Một điều đặc biệt là không những các người con tỏ lòng biết ơn bà mẹ của mình mà cả các nhà thờ, hội đoàn, và bạn bè đều tổ chức những buổi họp mặt để ca ngợi, vinh danh, tặng quà, tặng thiệp, và tặng hoa cho các bà mẹ. Canada và Hoa Kỳ đều tổ chức kỷ niệm ngày Mothet’s Day vào cùng một ngày với cùng ý nghĩa.
2. Ngày Father’s Day (Ngày Báo Hiếu Cha)
Ở Hoa Kỳ và Canada, ngày Father’s Day được tổ chức vào Chủ Nhật thứ ba trong tháng sáu dương lịch. Vào ngày này người ta tỏ lòng biết ơn và vinh danh công ơn của những người cha (bố) bằng cách biếu quà, tặng hoa, và tặng tấm thiệp cho các người cha với những lời ghi ơn và chúc mừng tốt lành. Người khởi xướng ra ngày Father’s Day là bà Sonora Louise Smart Dodd (Smart là họ của cha và Dodd là họ của chồng). Ở thành phố Spokane thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, vào năm 1909, sau khi nghe bài thuyết giảng về ngày Mother’s Day, Bà Dodd đã có sáng kiến dành một ngày đặc biệt để vinh danh những người cha (bố). Bà có ý muốn vinh danh người cha của bà là ông William Jackson Smart. Ông Smart, sau khi vợ mất, đã ở vậy nuôi 6 người con cho chúng khôn lớn nên người.
Bà Dodd đã viết thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền chấp nhận việc tổ chức ngày Father’s Day một cách chính thức trên toàn cõi Hoa Kỳ. Hội đồng mục sư thành phố Spokane cùng với cơ quan YMCA (Young Men’s Christian Association) địa phương đều hết sức hỗ trợ cho thỉnh nguyện này. Do sự cố gắng của Bà Dodd mà ngày Father’s Day đã được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Spokane vào 19 tháng 6 năm 1910. Mãi đến năm 1972, Tổng Thống Richard M. Nixon của Hoa Kỳ mới ký sắc lệnh để chính thức công nhận việc tổ chức ngày Father’s Day trên toàn cõi Hoa Kỳ.
B. Truyền Thống Nhớ Ơn của Người Bắc Mỹ
Sự nhớ ơn của người Bắc Mỹ rất là sòng phẳng. Đã chịu ơn ai thì họ cố trả cho bằng được. Họ cũng rất hợp tình hợp lý trong cách đối xử với nhau. Phần đông người Bắc Mỹ rất tôn trọng lẽ phải. Tình cảm tuy không đậm đà nhưng rất lịch sự, trọng hình thức, và rất biết điều. Chính vì thế, họ cũng biết ơn, nhất là đối với Chúa, với các chiến sĩ trận vong và các vị anh hùng liệt nữ đã dựng nước và giữ nước của họ. Sau đây chúng ta hãy thử tìm hiểu những dịp mà người Bắc Mỹ thường bày tỏ lòng biết ơn đối với thượng đế, các vị anh hùng liệt nữ, các ân nhân, thân thuộc, và bằng hữu.
1. Ngày Thanksgiving Day (Ngày Lễ Tạ Ơn)

Mucï đích của ngày lễ Thanksgiving Day là để cám ơn Thượng Đế đã ban phước lành trong năm. Vào ngày này, người ta làm tiệc ăn mừng và dâng lời cầu khẩn. Nguyên thủy, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức lần đầu tiên ở New England. New England là phần đất ở phía đông bắc Hoa Kỳ do Đại Úy John Smith khám phá ra vào năm 1614 và đặt tên là New England vì nó trông giống như địa thế của bờ biển bên Anh. New England gồm các tiểu bang: Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island, và Vermont.
Ngày lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ bắt nguồn từ ngày lễ ở New England này. Ở Hoa Kỳ, ngày lễ Thanksgiving Day thường mang tính cách của việc đoàn tụ gia đình với bữa ăn nấu bằng gà tây (turkey) rất thịnh soạn và ấm cúng. Ngày lễ này cũng là dịp để người ta suy tư về niềm tin tôn giáo và dành thì giờ đi nhà thờ cầu nguyện. Có một điều không hợp lý về ngày lễ tạ ơn tại Bắc Mỹ là họ đi sát hại cả hàng chục triệu gà tây (turkeys) để ăn mừng và cám ơn. Như thế thì còn đâu là ý nghĩa cám ơn nữa!
a.Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Thuần Túy Tôn Giáo:
Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa thuần túy tôn giáo đã được một nhóm di dân người Anh tổ chức lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào ngày mùng 4 tháng 12 năm 1619 tại đồn điền Berkeley Plantation bên bờ sông James River mà bây giờ là thành phố Charles City, Virginia. Họ tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day này hoàn toàn với mục đích tôn giáo để cám ơn Thượng Đế và đồng thời để kỷ niệm ngày đầu tiên họ đặt chân lên miền đất hứa này.
b. Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Tạ Ơn vì Được Mùa:
Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa tạ ơn vì được mùa đã được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Plymouth, Massachusetts, một năm sau khi quân thực dân Plymouth đến định cư ở Hoa Kỳ. Plymouth là tên của một thuộc địa Anh. Một nhóm tín đồ theo đạo Tin Lành người Anh có đầu óc cấp tiến, bị cấm hành đạo, di dân sang Bắc Mỹ thiết lập thuộc địa vào năm 1620 lấy tên là Plymouth Colony. Nhóm tín đồ này được người ta gọi là Quân Thực Dân Plymouth.Thuộc địa này bây giờ là miền đông Massachusetts.
Mùa đông đầu tiên khi ï Quân Thực Dân Plymouth đặt chân đến Massachusetts rất là khủng khiếp. Mùa đông này đã làm chết vào khoảng một nửa số người đến định cư ở đây. Nhưng vào năm 1621, họ có hy vọng được mùa. Chính vì thế mà vào đầu mùa thu năm 1621, Thống Đốc William Bradford đã cho tổ chức ngày hội để ăn mừng hy vọng được mùa và cám ơn Thượng Đế về những tiến triển và thành quả mà dân chúng đã gặt hái được. Tuy nhiên, từ sau mùa thu năm 1621, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào cuối mùa thu khi mà hoa màu đã được gặt hái xong.
c. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ:
Phong tục về ngày lễ Thanksgiving Day đã lan tràn từ Plymouth ra các thuộc địa khác của New England. Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng của người Hoa Kỳ khỏi sự cai trị của người Anh từ năm 1775 đến 1781, người Hoa Kỳ có tất cả 8 ngày đặc biệt để tạ ơn sự chiến thắng và thoát khỏi sự hiểm nghèo. Vào năm 1789, Tổng Thống George Washington đã tuyên bố ngày 26 tháng 11 là ngày lễ Thanksgiving Day của quốc gia. Nhưng trong cùng một năm đó, nhà thờ Protestant Episcopal Church lại tuyên bố ngày thứ Năm đầu tiên trong tháng 11 là ngày tạ ơn hàng năm.
Trong bao nhiêu năm, Hoa Kỳ không có ngày chính thức dành cho lễ Thanksgiving Day cả. Mãi về sau này, nhờ sự khéo léo và bao công sức vận động của bà chủ bút tờ Godey’s Lady’s Book, bà Sarah Josepha Hale, ngày lễ Thanksgiving Day mới được trở thành ngày lễ chính thức trên toàn quốc Hoa Kỳ. Sau đó Tổng Thống Abraham Lincoln tuyên bố ngày thứ năm cuối tháng 11 năm 1863 là ngày tạ ơn và vinh danh Đức Thánh Cha. Rồi mỗi năm sau đó, trong 75 năm, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào ngày thứ năm cuối tháng 11. Nhưng đến năm 1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt lại cho tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day sớm hơn một tuần nhằm mục đích giúp cho các cơ sở thương mại buôn bán thuận lợi trước mùa Giáng Sinh. Cuối cùng, sau năm 1941, Quốc Hội Hoa Kỳ đã quyết định chọn ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư trong tháng 11 dương lịch là ngày lễ Thanksgiving Day và là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ.
d. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Canada:
Canada cũng tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day giống như ở Hoa Kỳ, nhưng lại tổ chức khác ngày vì tùy theo vụ mùa. Trước đây ngày lễ Thanksgiving Day của Canada được tổ chức vào ngày thứ hai cuối tháng 10 dương lịch. Từ năm 1957, chính phủ Canada tuyên bố ngày thứ hai của tuần lễ thứ nhì trong tháng 10 là ngày lễ chính thức dành cho Thanksgiving Day.
2. Ngày Lễ Remembrance Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) của Bắc Mỹ
a. Ngày Lễ Remembrance Day của Canada:
Ở Canada, ngày Remembrance Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch mỗi năm để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh trong trận Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế Chiến, và cuộc chiến tranh Cao Ly. Biểu tượng của ngày Remembrance Day là poppy flowers (hoa anh túc) màu đỏ mà người ta đeo ở ngực trong dịp này. Lý do chính là hoa poppy mọc rất nhiều trên các bãi chiến trường ở Pháp trong Đệ Nhất Thế Chiến.
Loại cây hoa poppy quí nhất là loại có hoa trắng và nhựa của nó được dùng để làm thuốc phiện. Loại cây này được trồng ở Á Đông từ hồi cổ xưa. Có những loại cây poppy mọc ở nơi hoang dã thuộc Châu Âu. Hoa poppy có đủ màu: màu đỏ, màu cam, màu trắng, và màu hồng. Nhụy hoa thường là màu tím hơi đen đen hay màu xanh lam. Hoa poppy đã từng được ngưỡng mộ là một loại hoa có vẻ đẹp thanh tao và duyên dáng.
Vào đúng 11 giờ, ngày 11 tháng 11 năm 1918, một hiệp ước đình chiến được ký kết trên toa xe lửa ở ngoại ô thành phố Compiegne tại Pháp để chấm dứt Đệ Nhất Thế Chiến, 1914-1918. Từ ngày đó, người dân Canada luôn luôn lấy ngày 11 tháng 11 để kỷ niệm những người đã hy sinh cho lý tưởng tự do. Thoạt đầu, ngày lễ kỷ niệm này có tên là Armistice Day (ngày hiệp ước đình chiến). Tiếp đó, nó lại có tên là Thanksgiving Day. Trong đạo luật về các ngày nghỉ lễ (The Holidays Act) được ký vào năm 1970, chính phủ Canada chính thức xác nhận ngày chiến sĩ trận vong của Canada có tên là Remembrance Day và được kỷ niệm vào ngày 11 tháng 11 hằng năm.
Với tinh thần của ngày 11 tháng 11 dương lịch, các nước đều kỷ niệm ngày chiến sĩ trận vong này. Có một số nước dùng cùng tên và cùng ngày, một số nước khác lại dùng khác tên khác ngày. Tuy nhiên, mục đích chung vẫn là để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh cho lý tưởng tự do và hòa bình của nhân loại. Ở Hoa Kỳ, người ta có hai ngày để nhớ ơn chiến sĩ: ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) và Veterans’ Day (Ngày Cựu Chiến Binh).
Ngày Memorial Day được tổ chức vào ngày thư hai cuối tháng 5 dương lịch, và ngày Veterans’ Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Pháp, ngày chiến sĩ trận vong được gọi là Jour Du Souvenir và cũng được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Anh, ngày chiến sĩ trận vong có tên giống như của Canada là Remembrance Day và được tổ chức vào ngày chủ nhật gần nhất của ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Nga, ngày chiến sĩ trận vong có tên được dịch sang tiến Anh là Victory Day và được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 dương lịch. Ở Đức, ngày chiến sĩ trận vong có tên là Volkstrauertag và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật thứ ba trong tháng 11 dương lịch.
* Truyền Thống Hoa Đeo Hoa Poppy: Trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến mà người Canada gọi là Great War, có nhiều trận chiến dữ dội đã diễn ra tại quận Flanders ở Bỉ (Belgium). Trên bãi chiến trường kinh hoàng đầy chết chóc này, cứ mỗi độ xuân về trong lúc những người lính đang kịch chiến ở hầm hố cá nhân hay giao thông hào, hoa poppy màu đỏ lại nở rộ để đón chào các chiến sĩ can trường đang bảo vệ tự do và hòa bình cho nhân loại.
Vị trung tá quân y kiêm sĩ quan pháo binh Canada, Trung Tá John McCrae, đã viết về chiến trường vinh quang này qua một bài thơ. Với tâm hồn thơ thôi thúc trong khi đang chiến đấu, Trung Tá McCrae đã viết những câu thơ bất hủ. Ông bắt đầu bài thơ “In Flanders’ Fields” bằng những chữ: In Flanders’ Fields the poppies blow. Bài thơ này đã được in trên báo ở Anh, tờ Punch, vào 8 tháng 12, 1915. Chẳng bao lâu, mọi người lính nơi chiến địa đã truyền miệng nhau và họ đều thuộc lòng bài thơ này và coi nó là bài ca của lính vì nó đã chứa đựng tâm tư thầm kín tận đáy lòng cũng như sự kinh hoàng cùng cực của họ trong ý nghĩa cái chết của họ có thể trở thành vô ích và sự hy sinh của họ có thể bị lãng quên.

Mucï đích của ngày lễ Thanksgiving Day là để cám ơn Thượng Đế đã ban phước lành trong năm. Vào ngày này, người ta làm tiệc ăn mừng và dâng lời cầu khẩn. Nguyên thủy, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức lần đầu tiên ở New England. New England là phần đất ở phía đông bắc Hoa Kỳ do Đại Úy John Smith khám phá ra vào năm 1614 và đặt tên là New England vì nó trông giống như địa thế của bờ biển bên Anh. New England gồm các tiểu bang: Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island, và Vermont.Ngày lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ bắt nguồn từ ngày lễ ở New England này. Ở Hoa Kỳ, ngày lễ Thanksgiving Day thường mang tính cách của việc đoàn tụ gia đình với bữa ăn nấu bằng gà tây (turkey) rất thịnh soạn và ấm cúng. Ngày lễ này cũng là dịp để người ta suy tư về niềm tin tôn giáo và dành thì giờ đi nhà thờ cầu nguyện. Có một điều không hợp lý về ngày lễ tạ ơn tại Bắc Mỹ là họ đi sát hại cả hàng chục triệu gà tây (turkeys) để ăn mừng và cám ơn. Như thế thì còn đâu là ý nghĩa cám ơn nữa!a.Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Thuần Túy Tôn Giáo:Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa thuần túy tôn giáo đã được một nhóm di dân người Anh tổ chức lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào ngày mùng 4 tháng 12 năm 1619 tại đồn điền Berkeley Plantation bên bờ sông James River mà bây giờ là thành phố Charles City, Virginia. Họ tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day này hoàn toàn với mục đích tôn giáo để cám ơn Thượng Đế và đồng thời để kỷ niệm ngày đầu tiên họ đặt chân lên miền đất hứa này.b. Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Tạ Ơn vì Được Mùa:Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa tạ ơn vì được mùa đã được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Plymouth, Massachusetts, một năm sau khi quân thực dân Plymouth đến định cư ở Hoa Kỳ. Plymouth là tên của một thuộc địa Anh. Một nhóm tín đồ theo đạo Tin Lành người Anh có đầu óc cấp tiến, bị cấm hành đạo, di dân sang Bắc Mỹ thiết lập thuộc địa vào năm 1620 lấy tên là Plymouth Colony. Nhóm tín đồ này được người ta gọi là Quân Thực Dân Plymouth.Thuộc địa này bây giờ là miền đông Massachusetts.Mùa đông đầu tiên khi ï Quân Thực Dân Plymouth đặt chân đến Massachusetts rất là khủng khiếp. Mùa đông này đã làm chết vào khoảng một nửa số người đến định cư ở đây. Nhưng vào năm 1621, họ có hy vọng được mùa. Chính vì thế mà vào đầu mùa thu năm 1621, Thống Đốc William Bradford đã cho tổ chức ngày hội để ăn mừng hy vọng được mùa và cám ơn Thượng Đế về những tiến triển và thành quả mà dân chúng đã gặt hái được. Tuy nhiên, từ sau mùa thu năm 1621, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào cuối mùa thu khi mà hoa màu đã được gặt hái xong.c. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ:Phong tục về ngày lễ Thanksgiving Day đã lan tràn từ Plymouth ra các thuộc địa khác của New England. Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng của người Hoa Kỳ khỏi sự cai trị của người Anh từ năm 1775 đến 1781, người Hoa Kỳ có tất cả 8 ngày đặc biệt để tạ ơn sự chiến thắng và thoát khỏi sự hiểm nghèo. Vào năm 1789, Tổng Thống George Washington đã tuyên bố ngày 26 tháng 11 là ngày lễ Thanksgiving Day của quốc gia. Nhưng trong cùng một năm đó, nhà thờ Protestant Episcopal Church lại tuyên bố ngày thứ Năm đầu tiên trong tháng 11 là ngày tạ ơn hàng năm.Trong bao nhiêu năm, Hoa Kỳ không có ngày chính thức dành cho lễ Thanksgiving Day cả. Mãi về sau này, nhờ sự khéo léo và bao công sức vận động của bà chủ bút tờ Godey’s Lady’s Book, bà Sarah Josepha Hale, ngày lễ Thanksgiving Day mới được trở thành ngày lễ chính thức trên toàn quốc Hoa Kỳ. Sau đó Tổng Thống Abraham Lincoln tuyên bố ngày thứ năm cuối tháng 11 năm 1863 là ngày tạ ơn và vinh danh Đức Thánh Cha. Rồi mỗi năm sau đó, trong 75 năm, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào ngày thứ năm cuối tháng 11. Nhưng đến năm 1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt lại cho tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day sớm hơn một tuần nhằm mục đích giúp cho các cơ sở thương mại buôn bán thuận lợi trước mùa Giáng Sinh. Cuối cùng, sau năm 1941, Quốc Hội Hoa Kỳ đã quyết định chọn ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư trong tháng 11 dương lịch là ngày lễ Thanksgiving Day và là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ.d. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Canada:Canada cũng tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day giống như ở Hoa Kỳ, nhưng lại tổ chức khác ngày vì tùy theo vụ mùa. Trước đây ngày lễ Thanksgiving Day của Canada được tổ chức vào ngày thứ hai cuối tháng 10 dương lịch. Từ năm 1957, chính phủ Canada tuyên bố ngày thứ hai của tuần lễ thứ nhì trong tháng 10 là ngày lễ chính thức dành cho Thanksgiving Day.2. Ngày Lễ Remembrance Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) của Bắc Mỹa. Ngày Lễ Remembrance Day của Canada:Ở Canada, ngày Remembrance Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch mỗi năm để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh trong trận Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế Chiến, và cuộc chiến tranh Cao Ly. Biểu tượng của ngày Remembrance Day là poppy flowers (hoa anh túc) màu đỏ mà người ta đeo ở ngực trong dịp này. Lý do chính là hoa poppy mọc rất nhiều trên các bãi chiến trường ở Pháp trong Đệ Nhất Thế Chiến.Loại cây hoa poppy quí nhất là loại có hoa trắng và nhựa của nó được dùng để làm thuốc phiện. Loại cây này được trồng ở Á Đông từ hồi cổ xưa. Có những loại cây poppy mọc ở nơi hoang dã thuộc Châu Âu. Hoa poppy có đủ màu: màu đỏ, màu cam, màu trắng, và màu hồng. Nhụy hoa thường là màu tím hơi đen đen hay màu xanh lam. Hoa poppy đã từng được ngưỡng mộ là một loại hoa có vẻ đẹp thanh tao và duyên dáng.Vào đúng 11 giờ, ngày 11 tháng 11 năm 1918, một hiệp ước đình chiến được ký kết trên toa xe lửa ở ngoại ô thành phố Compiegne tại Pháp để chấm dứt Đệ Nhất Thế Chiến, 1914-1918. Từ ngày đó, người dân Canada luôn luôn lấy ngày 11 tháng 11 để kỷ niệm những người đã hy sinh cho lý tưởng tự do. Thoạt đầu, ngày lễ kỷ niệm này có tên là Armistice Day (ngày hiệp ước đình chiến). Tiếp đó, nó lại có tên là Thanksgiving Day. Trong đạo luật về các ngày nghỉ lễ (The Holidays Act) được ký vào năm 1970, chính phủ Canada chính thức xác nhận ngày chiến sĩ trận vong của Canada có tên là Remembrance Day và được kỷ niệm vào ngày 11 tháng 11 hằng năm.Với tinh thần của ngày 11 tháng 11 dương lịch, các nước đều kỷ niệm ngày chiến sĩ trận vong này. Có một số nước dùng cùng tên và cùng ngày, một số nước khác lại dùng khác tên khác ngày. Tuy nhiên, mục đích chung vẫn là để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh cho lý tưởng tự do và hòa bình của nhân loại. Ở Hoa Kỳ, người ta có hai ngày để nhớ ơn chiến sĩ: ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) và Veterans’ Day (Ngày Cựu Chiến Binh).Ngày Memorial Day được tổ chức vào ngày thư hai cuối tháng 5 dương lịch, và ngày Veterans’ Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Pháp, ngày chiến sĩ trận vong được gọi là Jour Du Souvenir và cũng được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Anh, ngày chiến sĩ trận vong có tên giống như của Canada là Remembrance Day và được tổ chức vào ngày chủ nhật gần nhất của ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Nga, ngày chiến sĩ trận vong có tên được dịch sang tiến Anh là Victory Day và được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 dương lịch. Ở Đức, ngày chiến sĩ trận vong có tên là Volkstrauertag và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật thứ ba trong tháng 11 dương lịch.* Truyền Thống Hoa Đeo Hoa Poppy: Trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến mà người Canada gọi là Great War, có nhiều trận chiến dữ dội đã diễn ra tại quận Flanders ở Bỉ (Belgium). Trên bãi chiến trường kinh hoàng đầy chết chóc này, cứ mỗi độ xuân về trong lúc những người lính đang kịch chiến ở hầm hố cá nhân hay giao thông hào, hoa poppy màu đỏ lại nở rộ để đón chào các chiến sĩ can trường đang bảo vệ tự do và hòa bình cho nhân loại.Vị trung tá quân y kiêm sĩ quan pháo binh Canada, Trung Tá John McCrae, đã viết về chiến trường vinh quang này qua một bài thơ. Với tâm hồn thơ thôi thúc trong khi đang chiến đấu, Trung Tá McCrae đã viết những câu thơ bất hủ. Ông bắt đầu bài thơ “In Flanders’ Fields” bằng những chữ: In Flanders’ Fields the poppies blow. Bài thơ này đã được in trên báo ở Anh, tờ Punch, vào 8 tháng 12, 1915. Chẳng bao lâu, mọi người lính nơi chiến địa đã truyền miệng nhau và họ đều thuộc lòng bài thơ này và coi nó là bài ca của lính vì nó đã chứa đựng tâm tư thầm kín tận đáy lòng cũng như sự kinh hoàng cùng cực của họ trong ý nghĩa cái chết của họ có thể trở thành vô ích và sự hy sinh của họ có thể bị lãng quên.

Bài thơ “In Flanders’ Fields” đã làm cảm động tâm hồn người Canada cũng như bao người khắp nơi trên thế giới đến nỗi họ đã chấp nhận hoa poppy là biểu tượng của nhớ thương và đã được mọi người mua gắn trên ngực vào dịp lễ Remembrance Day, 11 tháng 11 dương lịch. Trung Tá John McCrae quê ở Guelph, Canada. Ông đã tử trận vào ngày 28 tháng giêng năm 1918 trong khi đang chiến đấu ở mặt trận tại Pháp. Sau đây là nguyên văn (bằng tiếng Anh) bài thơ bất hủ “In Flanders’ Fields” của Trung Tá John McCrae.
In Flanders’ Fields
In Flanders’ Fields the poppies blow,
Between the crosses, row on row
That mark our place, and in the sky,
The larks still bravely singing fly,
Scarce heard amidst the guns below.
We are the dead short days ago,
We lived, felt dawn, saw sunset glow,
Loved and were loved, and now we lie in Flanders’ Fields.
Take up our quarrel with the foe,
To you from falling hands we throw
The torch – be yours to hold it high.
If ye break faith with us who die,
We shall not sleep though poppies grow in Flanders’ Fields.
Chiến Địa Phờ Lan Đơ
(Khải Chính Phạm Kim Thư chuyển ngữ)
Nơi đây chiến địa Phờ Lan Đơ, hoa póp-pi khoe mình rực rỡ
Giữa những hàng Thánh Giá mộ chiến binh,
Và trên không, chim sơn ca can trường thản nhiên bay cất cao tiếng hót,
Tuy có du dương nhưng hiếm người nghe được,
Giữa lúc dưới đây lửa đạn tung trời.
Chúng tôi là những người đã chết trong mấy ngày ngắn ngủi vừa qua,
Nhưng chúng tôi đã sống, đã thấy bình minh lồng lộng,
Và ngắm hoàng hôn đỏ ối phương trời.
Chúng tôi đã yêu, yêu say đắm,
Và cũng đã được yêu nồng thắm một thời.
Nay báo đáp Hồng Ân, đền bồi nợ nước ,
Thảnh thơi an nghỉ dưới nấm mộ hoang nơi chiến địa Phờ Lan Đơ.
Hỡi các bạn còn sống nhờ hy sinh yêu thương đùm bọc
Của bao người đã ngã gục cho tự do,
Hãy đối diện cùng quân thù hung hiểm,
Hãy tiếp lấy đuốc thiêng với những cánh tay rắn chắc,
Dâng cao ngọn đuốc nhân bản soi đường,
Từ tay chúng tôi, những người đã năm xuống nhưng cố vươn lên.
Nếu các bạn phản bội niềm tin chính nghĩa
Của chúng tôi, những người đã khuất,
Chúng tôi không thể nào yên giấc,
Dù hoa póp-pi có nở rộ khắp chiến địa Phờ Lan Đơ!

Hằng năm cứ vào khoảng độ hai tuần trước ngày lễ Remembrance Day, ngày 11 tháng 11 ở Canada, và ngày Memorial Day, ngày thứ hai cuối tháng 5 ở Mỹ, người ta có bày bán hoa poppies giả, cánh hoa màu đỏ, nhụy màu xanh lam, ở các cửa tiệm và nhà ngân hàng để gây quỹ giúp thương phế binh. Những người có lòng nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh vì chính nghĩa tự do và hòa bình nhân loại đều mua bông poppy gắn vào ve áo ở trước ngực trong dịp này.
* Ba Phút Măïc Niệm: Theo phong tục về sự tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến, ngày kỷ niệm ký hiệp ước đình chiến Armistice Day đã được tổ chức từ năm 1919 theo lời đề nghị của Anh Hoàng, King George V. Nhà vua yêu cầu toàn dân Anh dành 3 phút vào đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong và Bản Tuyên Cáo Hòa Bình.
Trong ngày tưởng niệm đầu tiên, người ta thấy bất cứ người nào đang làm việc gì cũng tự động ngừng lại và đứng nghiêm để ngả nón cúi đầu tưởng niệm trong ba phút. Không những người ta mà mọi thứ như nhà máy, xe hơi, xe lửa, và ngay cả tàu thủy cũng tắt máy trong ba phút này, dĩ nhiên máy bay được hưởng ngoại lệ. Kể từ dạo đó đến nay, trong ngày Remembrance Day, người ta đều dành ra 3 phút măïc niệm. Cũng có nơi dành hai phút mà thôi. Người Việt mình thường chỉ dành 1 phút măïc niệm để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong. Đây là sự khác biệt mà chúng ta cần lưu ý.
b. Ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) của Hoa Kỳ:
Ngày Memorial Day còn được gọi là Decoration Day. Đây là ngày lễ mang tính cách ái quốc tại Hoa Kỳ để vinh danh những người Hoa Kỳ đã hy sinh mạng sống của mình cho đất nước của họ. Nguyên trước đây, ngày này chỉ để vinh danh những chiến sĩ đã chết trong trận nội chiến Civil War vào các năm từ 1861 đến 1865. Nhưng hiện nay ngày Memorial Day mang ý nghĩa vinh danh tất cả những ai đã hy sinh trong các cuộc chiến khi đang phục vụ cho đất nước Hoa Kỳ.
Sau Đệ Nhất Thế Chiến, ngày Memorial Day cũng được coi là Ngày Hoa Poppy (Poppy Day). Từ đó hoa poppy trở thành biểu tượng của một thảm kịch cũng như của sự tái sinh bởi vì những bông hoa poppy đã nở rộ trên khắp các chiến trường ở Pháp vào thời đó. Có nhiều cộng đồng người Hoa Kỳ tuyên bố ngày Memorial Day là do họ khởi xướng mà thành. Tuy nhiên, vào năm 1966, chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng thành phố Waterloo của tiểu bang New York là nơi khai sinh ra ngày Memorial Day.
Dân chúng thành phố Waterloo đã tổ chức buổi lễ Memorial Day lần đầu tiên vào ngày 6-5-1866 để vinh danh các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc nội chiến Civil War của Hoa Kỳ. Bây giờ, ngày Memorial Day là ngày lễ chính thức của hầu hết mọi tiểu bang ở Hoa Kỳ và đã được chính phủ ban hành thành luật kể từ năm 1971. Các tiểu bang ở phía bắc và một số các tiểu bang phía nam đều tổ chức ngày Memorial Day vào ngày Thứ Hai cuối tháng 5 dương lịch.
c. Ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân) của Hoa Kỳ: Ngày Veterans Day dùng để vinh danh các chiến sĩ đã từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Đây là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Trong ngày lễ này người ta tổ chức các buổi diễn hành, nói chuyện, và các nghi lễ để vinh danh các chiến sĩ vô danh trong nghĩa trang quốc gia Arlington National Cemetery ở Arlington thuộc về miền đông bắc tiểu bang Virginia trên bờ sông Potomac River, đối diện với thủ đô Washington D.C., Hoa Kỳ.
Nguyên trước đây, vào năm 1919, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên cáo ngày 11 tháng 11 là ngày Armistice Day (Ngày Hiệp Ước Đình Chiến) để nhắc nhở dân chúng Hoa Kỳ về những thảm họa chiến tranh. Rồi một đạo luật được ban hành vào năm 1938 công nhận ngày Armistice Day là ngày nghỉ lễ chính thức của liên bang. Sau cùng, vào năm 1954, Quốc Hội Hoa Kỳ đổi tên ngày Armistice Day (Ngày Hiệp Ước Đình Chiến) thành ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân) để vinh danh tất cả những cựu chiến binh Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch.

3. Ngày Independence Day (Ngày Độc Lập) của Hoa Kỳ
Để nhớ ơn tiền nhân đã dựng nước và giữ nước, người Hoa Kỳ hàng năm có kỷ niệm ngày lễ Independence Day (Ngày Lễ Độc Lập) của họ. Người Mỹ tổ chức ngày lễ Independence Day vào mùng 4 tháng 7 hằng năm để kỷ niệm ngày thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà ta gọi là ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ.
Nguyên trước kia, vào ngày 2-7-1776, Quốc Hội Cách Mạng của mười ba thuộc địa Anh tại Mỹ đã tuyên bố các thuộc địa này được hưởng tự do và độc lập. Nhưng mãi tới ngày 4 tháng 7, Quốc Hội Mỹ mới chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Kể từ đó, ngày 4 tháng 7 được công nhận là Ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ.
Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ được tổ chức đầu tiên ở tiểu bang Philadelphia vào ngày 8 tháng 7 năm 1776. Vào ngày này, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được đọc cho dân chúng nghe, chuông từ mọi nhà thờ đều được rung lên vang dội, các ban nhạc đều được người ta thi nhau hòa tấu, và mọi người dân tưng bừng hoan hỉ đón chào ngày trọng đại của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Mãi tới năm 1941, Quốc Hội Hoa Kỳ mới tuyên bố ngày 4 tháng 7 là ngày nghỉ lễ hợp pháp trên toàn nước Mỹ.
4. Ngày Canada Day (Ngày Quốc Khánh Canada)
Người Canada cũng như người các nước khác rất biết nhớ ơn tiền nhân đã tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia họ. Ngày Quốc Khánh Canada có tên là Canada Day. Canada Day là một trong những ngày lễ quan trong nhất của Canada. Nó được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 dương lịch mỗi năm để kỷ niệm ngày mà bốn thuộc địa Anh gồm Newbrunswick, Nova Scotia, Ontario, và Quebec được thống nhất thành một nước dưới cái tên Dominion of Canada. Dominion of Canada do điều luật The British North America Act có hiệu nghiệm từ ngày 1 tháng 7 năm 1867 chi phối.
Các thuộc địa khác của Anh gia nhập Dominion of Canada gồm: Manitoba (1870), British Columbia (1871), Prince Edward Island (1873), Alberta (1905), Saskatchewan (1905), và Newfoundland (1949). Lãnh thổ Yukon chính thức được hiến pháp Canada công nhận là lãnh thổ của Canada vào năm 1898. Lãnh thổ Northwest Territories được Anh chuyển giao cho Canada vào năm 1870.
Lãnh thổ Nunavut được thành lập vào năm 1999. Hiện nay, Canada gồm có 10 tỉnh và 3 lãnh thổ được chia thành 6 vùng: The Atlantic Provinces (gồm bốn tỉnh: Newfoundland, NewBrunswick, Prince Edward Island, và Nova Scotia); Quebec; Ontario; Prairie Provinces (gồm ba tỉnh: Alberta, Saskatchewan, và Manitoba); British Columbia; và Territories (gồm ba lãnh thổ: Yukon Territory, Northwest Territories, và Nunavut Territory).
Từ năm 1867 đến 1982, ngày quốc khánh Canada có tên Dominion Day. Sau khi Thủ Tướng Pierre Elliott Trudeau viết lại hiến pháp Canada, bản hiến pháp này đã trở thành luật của Canada vào năm 1982. Từ năm 1982, ngày lễ Dominion Day được đổi thành ngày Canada Day.
5. Ngày Valentine’s Day (Lễ Tình Yêu)
Lòng biết ơn, tình cảm, cũng như tình yêu có được là nhờ sự quan hệ và giao thiệp trong cuộc sống của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, thầy trò, bằng hữu, họ hàng, người yêu, đồng nghiệp, và tha nhân. Ở Bắc Mỹ, có một ngày đặc biệt gọi là ngày Valentine’s Day dành để kỷ niệm tình thương yêu giữa các cặp tình nhân, bạn bè với nhau, học trò và thầy cô, và giữa những người thân thuộc trong gia đình với nhau.
Ngày lễ Valentine’s Day được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 dương lịch. Trong dịp này người ta gửi cho nhau những thiệp chúc mừng Valentine. Thiệp Valentine thường được người yêu tặng cho nhau, bạn bè gửi cho nhau, và những người trong gia đình cùng thân thuộc trao nhau để tỏ lòng biết ơn và nhớ tới nhau.
Hàng tuần lễ trước ngày 14 tháng 2, các cửa tiệm đều bán đủ thứ thiệp Valentines và những đồ trang trí cho ngày Valentine. Biểu tượng của Valentine là hình trái tim màu hồng hay đỏ. Học sinh ở các trường trang hoàng lớp học với những trái tim bằng giấy màu hồng hay đỏ cùng với dây đăng ten bằng giấy nhiều màu. Các em còn mua các thiệp Valentines để tặng nhau và tặng thầy cô.
Vào ngày Valentine, người ta tặng kẹo, hoa, và các thứ quà cho người yêu, bạn bè, thầy cô, cha mẹ, anh chị em, ông bà, và họ hàng. Các học sinh lớn hơn thường mở dạ vũ Valentine và tổ chức các buổi tiệc và các cuộc vui khác thật là linh đình và náo nhiệt. Như đã trình bày, ngày Valentine không phải chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân, nó dành để mọi người bày tỏ tình thân thương với nhau, trong đó có tình yêu trai gái. Vì thế, nếu ai dịch từ Valentine ra tiếng Việt là Ngày Lễ Tình Nhân thì e không được ổn. Ngày lễ Valentine này phải được gọi là “Lễ Tình Yêu” mới chính xác vì “tình yêu” đây tượng trưng cho cả tình yêu của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, thầy trò, bằng hữu, họ hàng, người yêu, đồng nghiệp, và tha nhân.
a. Nguồn Gốc Ngày Lễ Valentine:
Có nhiều sự tích để giải thích nguồn gốc của ngày lễ Valentine. Có người cho rằng ngày lễ này bắt nguồn từ ngày hội của người La Mã tên là Lupercalia. Có người cho nó có liên quan đến các vị thánh trong đạo Thiên Chúa lúc mới được thành lập.
Theo tín ngưỡng của người Anh, ngày lễ Valentine được tổ chức vào 14 tháng 2 dương lịch là do các giống chim đều kén vợ tìm chồng của chúng vào ngày này. Có lẽ ngày Valentine tồn tại được đến ngày nay là do sự tổng hợp của ba nguồn gốc trên. Thêm vào đó, người ta tin là mùa xuân là mùa của những cặp tình nhân để họ yêu thương, trân trọng, và trìu mến nhau.
* Ngày hội Lupercalia của người La Mã:
Người La Mã tổ chức ngày hội Lupercalia vào ngày 15 tháng 2. Trong buổi lễ này, những người đàn ông con trai lấy roi da quật nhẹ vào các người tham dự buổi lễ. Trong khi đó thì đàn bà con gái tình nguyện đưa thân mình đón lấy ngọn roi vì tin rằng làm như thế họ sẽ có cơ hội mắn con (sinh đẻ nhiều). Khi người La Mã đô hộ nước Anh vào năm 43 dương lịch, người Anh mới đồng hóa phong tục này của người La Mã để tổ chức ngày lễ Valentine. Các văn thi sĩ cho rằng ngày Valentine có liên hệ với ngày hội Lupercalia vì nó có ngày kỷ niệm gần trùng nhau và có tính cách sinh sôi nẩy nở.
* Các vị Thánh Valentines của đạo Thiên Chúa:
Từ hồi xa xưa, Thiên Chúa giáo có ít nhất là hai vị thánh có tên là Valentine. Chuyện kể rằng Hoàng Đế La Mã tên là Claudius II, vào năm 200 dương lịch, đã cấm thanh niên không được lập gia đình. Nhà vua tin rằng những chàng trai độc thân sẽ là những chiến sĩ giỏi và can trường hơn những đàn ông có gia đình. Trong khi đó, một tu sĩ tên là Valentine lại không tuân lệnh nhà vua và cứ bí mật làm lễ cưới cho các cặp trai gái trẻ.
Có chuyện khác kể rằng một tín đồ đầu tiên của đạo Thiên Chúa có tên là Valentine đã làm bạn với rất nhiều trẻ em. Trong thời gian này, người La Mã đã bỏ tù Valentine bởi vì anh ta không chịu tôn thờ Thượng Đế của họ. Vì không được gặp Valentine nữa, các trẻ em, bạn của Valentine, rất nhớ anh ta. Chúng viết vào các mảnh giấy nhỏ những lời nhớ thương trìu mến đối với Valentine rồi ném mảnh giấy qua song cửa nhà tù cho anh ta đọc. Căn cứ vào câu chuyện này, người ta có thể giải thích tại sao mà có lệ gửi thiệp với những lời yêu thương cho nhau vào dịp lễ Valentine. Trong khi ở tù, anh chàng Valentine đã chữa sáng mắt cho người con gái mù của người cai ngục. Sau đó người ta được biết Valentine đã bị hành quyết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 dương lịch.
Mãi đến năm 496, Thánh Pope Gelasius Đệ I đã phong thánh cho Valentine và chọn ngày 14 tháng 2 làm ngày Thánh Valentine (St. Valentine’s Day). Ngoài ra, chữ Galantine trong tiếng Pháp do người xứ Normandy (ở tây bắc nước Pháp) sử dụng vào thời Trung Cổ có âm gần giống chữ Valentine và có nghĩa là người yêu hay người có tính ga-lăng (lịch sự, biết chiều chuộng đàn bà con gái). Chính vì sự tương đồng này mà người ta cho Thánh Valentine là vị thánh đặc biệt của những cặp tình nhân. Xin nhớ rằng người Pháp dùng chữ Galantine với nghĩa khác và cách phát âm khác, không giống như người xứ Normandy đã dùng ở thời Trung Cổ.
b. Các Giống Chim Chọn Vợ Chồng Vào Ngày 14 Tháng 2 Dương Lịch:
Hồ sơ lâu đời về ngày Valentine’s Day ở Anh ghi rằng các giống chim chọn vợ chồng vào ngày 14 tháng 2. Đây là điều mà các thi sĩ và kịch sĩ Anh như Geoffrey Chaucer và Shakespeare đều ca ngợi trong các tác phẩm của họ.
Geoffrey Chaucer, một thi sĩ của Anh vào những năm 1300, đã viết trong thi phẩm The Parliament of Fowls các câu thơ sau: For this was on St. Valentine’s Day, / When every fowl cometh there to choose his mate (Vì đây là vào dịp của ngày Thánh Valentine, Bao nhiêu chim chóc đều về đây kén vợ tìm chồng).
Shakespeare cũng đề cập lòng tin này trong kịch phẩm A Midsummer Night’s Dream. Một nhân vật trong vở kịch đã gặp cặp tình nhân trong rừng và hỏi họ: St. Valentine is past; / Begin these woodbirds but to couple now” (Thánh Valentine không còn nữa, / Có phải những con chim rừng này bây giờ trở thành đôi uyên ương không”).
Một trong những phong tục thời xưa là vào dịp Valentine, người ta biên tên của các cô gái vào từng mảnh giấy nhỏ rồi bỏ vào trong một caí lộc bình (cái hũ) để các đấng đàn ông con trai rút thăm. Nếu tên của cô nào được một cậu rút thăm trúng thì cô đó sẽ trở thành Valentine của cậu ấy. Cậu ta sẽ chú ý săn sóc cô ta thật đặc biệt và mua quà Valentine cho cô này. Chính vì thế mà người ta có thói quen gọi người mình yêu thương là My Valentine.
Ngày lễ Valentine’s Day đầu tiên trên thế giới được tổ chức ở Anh vào khoảng năm 1400 dương lịch. Hiện nay ngày lễ này được đa số các nước trên thế giới tổ chức để mọi người có dịp bày tỏ và trân trọng tình yêu của nhau. Thật là một tục lệ rất đáng được bảo tồn và phát huy.
6. Ngày Lễ Christmas Day (Lễ Giáng Sinh)
Ngày lễ Thanksgiving của Hoa Kỳ cùng với ngày lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây tạo thành một mùa nghỉ lễ vui tươi bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 12 Dương lịch. Ngày lễ Christmas mà ta thường gọi là Nô-En (Noel) hay Lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây là hai ngày lễ hết sức trọng đại của người Bắc Mỹ. Không khí của hai ngày lễ này cũng giống như không khí ngày Tết Nguyên Đán của ta vậy. Đây là dịp để mọi người bày tỏ lòng săn sóc, cám ơn, và tình thương đối với nhau, đồng thời cũng là dịp cho mọi người được ăn chơi thỏa thích. Có nghèo đến mấy, mọi người cũng phải sắm những món quà tặng nhau, nhất là các bậc ông bà cha mẹ, bằng đủ mọi cách họ phải mua cho mỗi đứa con, mỗi đứa cháu, hay mỗi người trong gia đình một món quà thật là ưng ý. Con cháu cũng mua quà và thiệp Giáng Sinh tặng bố mẹ và ông bà.
Người ta chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh hàng hai tháng trời trước đó. Kể từ đầu tháng 11 dương lịch, mọi người đều háo hức rộn rực đón mừng Giáng Sinh và năm mới giống như người Việt ta chuẩn bị cho ba ngày Tết vậy. Có một điều khác biệt là người ta ăn mừng Giáng Sinh vừa theo tinh thần tôn giáo vừa theo phong tục dân gian. Cao điểm của sự háo hức rộn rực là vào tối trước ngày Giáng Sinh (Chirstmas Eve). Sau đó mọi thứ coi như bị xì hơi từ từ cho tới đêm trừ tịch của Tết Tây thì không khí vui nhộn lại bùng lên một chút rồi tắt lịm.
Tết ta mang nặng ý nghĩa phong tục dân gian nhiều hơn. Có nhiều người Việt chúng ta chuẩn bị cho 3 ngày Tết trước đó cả năm. Náo nức nhất là từ tháng một (tháng 11) đến tháng chạp (tháng 12). Đêm giao thừa thì thật là tuyệt vời. Đây là giờ phút thiêng liêng nhất của một năm. Sau ba ngày Tết, dân gian ta còn vui cái không khí của Tết cho mãi đến hết tháng giêng (tháng 1). Ca dao ta có câu: Tháng giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Dù giầu nghèo thế nào mặc lòng, người ta cũng phải lo cho ba ngày Tết thật chu đáo. Người xưa có câu: Giầu ba ngày Tết, khốn khó cũng ba ngày Tết. Người Bắc Mỹ cũng vậy. Họ còn vay nợ để tiêu xài cho thỏa thích trong mùa Giáng Sinh. Đây là cái mốt của mọi người. Trước đây, chính phủ Canada còn cấp cho dân ăn tiền trợ cấp xã hội (welfare) một khoản tiền đặc biệt chỉ dành để tiêu xài trong mùa Giáng Sinh .
Tuy rằng ngày lễ Giáng Sinh là ngày lễ của các người theo đạo Thiên Chúa được tổ chức mỗi năm vào ngày 25 tháng 12 dương lịch để kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus, nhưng đã hàng bao thế kỷ nay, ngày lễ này đã trở thành phong tục truyền thống của đời và đạo. Mọi người, dù có theo đạo Thiên Chúa hay không, cũng đều tổ chức mừng ngày Chúa ra đời.
Truyền thống tôn giáo gồm có các sinh hoạt như kể chuyện về ngày Chúa ra đời, hát các bài hát Giáng Sinh gọi là Christmas Carols, đi lễ nửa đêm vào tối hôm trước ngày Giáng Sinh, và trang hoàng nhà cửa cùng nhà thờ bằng những cảnh chúa sinh ra đời như hang đá và máng cỏ, v.v.
Truyền thống dân gian gồm có diễn hành Santa Claus Parade, trang trí nhà cửa và các công viên bằng hình Ông Già Nô-En (Santa Claus), cây Nô-En (Chirstmas Tree), dây đèn đủ màu săùc, và vòng hoa (Wreath). Mọi người tặng quà cho nhau, mở tiệc và dạ vũ, kể chuyện cho trẻ em nghe, và hát những bài hát vui tươi hay đọc thơ như bài “The Night Before Christmas” (ĐêmTrước Lễ Giáng Sinh) v.v.
Ngày Lễ Giáng Sinh và Tết Dương Lịch quả thật là thời gian tuyệt vời để mọi người nghĩ tới nhau, săn sóc nhau, tỏ lòng biết ơn nhau, và vui chơi thỏa thích. Mùa đông tháng giá cũng vì thế mà ấm áp lên, có vẻ ngắn đi, và mang đầy ý nghĩa thân tình.
III. Nhập Gia Tùy Tục, Nhập Giang Tùy Khúc
Đành rằng phong tục của người Việt ta phải giữ, nhưng chúng ta chỉ nên giữ lấy cái hay cái đẹp của phong tục mình và tránh những điều có thể gây phiền hà cho người chung quanh cũng như làm sao để khỏi lôi thôi tới pháp luật ở nơi quê hương mới này. Để được sống hạnh phúc nơi quê hương mới này, đa số người Việt đang sống ở hải ngoại đều đồng ý là ta phải học thêm những cái hay cái đẹp của người để làm giầu cho phong tục Việt và nhất là để hòa mình vào nếp sống mới cho đời chúng ta được thoải mái và con cháu chúng ta được vui tươi.
Các nhà giáo dục đều nhận thấy vai trò của phụ huynh và các hội đoàn người Việt ở hải ngoại rất là quan trọng trong việc tiên phong hướng dẫn con em chúng ta về truyền thống hiếu thảo và lòng biết ơn của người Việt. Tuy sống và lớn lên ở xứ ngưới, con em chúng ta vẫn cần phụ huynh khuyến khích chúng học hỏi cái hay cái đẹp về phong tục mới của người bản xứ trong khi vẫn giúp chúng duy trì phong tục và tập quán của người Việt Nam. Người ta tin rằng việc làm cụ thể và có hiệu quả nhất là phụ huynh và cộng đồng nên làm gương cho con em về những hành động hiếu thảo và biết ơn.
Chúng tôi ghi nhận được những hoạt động đầy ý nghĩa của các hội đoàn người Việt trên toàn cõi Bắc Mỹ. Có rất nhiều nơi đã tổ chức được những ngày cám ơn Canada, Thank You Canada, hay ngày cám ơn nước Mỹ, Thank You America, để cám ơn chính phủ và nhân dân Canada và Hoa kỳ về nghĩa cử cao đẹp mà họ đã làm để giúp đỡ người Việt tỵ nạn cộng Sản chúng ta.
Đã có rất nhiều các hội đoàn người Việt tham dự và đặt vòng hoa tại đài kỷ niệm nhân ngày chiến sĩ trận vong Remembrance Day của Canada, ngày chiến sĩ trận vong Memorial Day, và ngày cựu quân nhân Veterans Day của Hoa Kỳ. Trong các ngày quốc khánh của Canada cũng như của Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt chúng ta còn tham gia vào các cuộc diễn hành và triển lãm nữa. Còn có nhiều hội đoàn tổ chức ngày nhớ ơn người bảo trợ thật là trọng thể. Đây là những việc làm đáng được khuyến khích và tuyên dương.
Chúng tôi còn nhớ ở thành phố London, Canada, hồi Hội Người Việt London mới được thành lập vào 1979, một đại diện của hội đã hiện diện và đặt vòng hoa trong buổi lễ chiến sĩ trận vong Remembrance Day. Một điều đặc biệt hơn nữa là có trên năm chục hội đoàn của những người di dân thuộc các nước khác ở London mà dạo đó chỉ có vị đại diện của Hội Người Việt London ghi danh tham dự buổi lễ này mà thôi. Các viên chức tòa đô chính London và các giới cựu chiến binh Canada đã hết sức thán phục nghĩa cử biết ơn cao đẹp của đồng bào người Việt chúng ta.
Vào năm 1996, các hội đoàn người Việt ở Toronto, Canada còn có sáng kiến tổ chức ngày vinh danh thầy cô, Teachers’ Day. Buổi sinh hoạt này đã thành công mỹ mãn và làm các viên chức của sở giáo dục, thầy cô người Canada, và các cấp chính quyền địa phương hết sức thán phục truyền thống biết ơn thầy cô của dân Việt. Người Canada chưa có ngày nào dành riêng để nhớ ơn thầy cô cả. Học trò ở đây coi việc dạy học của các thầy cô như một dịch vụ thương mại, nhất là ở bậc đại học. Hằng năm, cứ đến cuối học kỳ, sinh viên của một số các trường đại học có quyền cho điểm thầy cô. Tùy theo chúng thương hay ghét mà thầy cô có được dạy tiếp trong học trong niên khóa tới hay không.
Đa số học sinh, và ngay cả phụ huynh người Bắc Mỹ đã không coi trọng thầy cô như học sinh và phụ huynh người Việt chúng ta. Chính vì thế mà việc làm của cộng đồng người Việt Toronto đã làm cho các bậc phụ huynh và chính quyền Canada phải xét lại thái độ của họ đối với thầy cô. Thầy cô giữ vai trò tối quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Địa vị của thầy cô có được kính trọng, công việc làm của thầy cô có được phụ huynh và học trò nhớ ơn, thì việc giáo dục con em mới khá được. Cao dao của ta có câu: Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thời yêu lấy thầy.
Trước đây, Liên Hiệp Quốc có yêu cầu các quốc gia tổ chức ngày vinh danh các thầy cô của họ. Tên bằng tiếng Anh của Ngày Vinh Danh Các Thầy Cô là World Teachers’ Day. Theo tin tờ Toronto Star, số ngày 5-10-2000, ngày Vinh Danh Thầy Cô là ngày Thứ Năm, 5-10-2000. Tuy nhiên, chưa thấy ngày Vinh danh Thầy Cô được ghi trong các tự điển hay trong World Book, Millennium 2000. Ngày này cũng chưa được phổ biến rộng rãi. Rất nhiều học sinh chưa biết tới Ngày Vinh Danh Thầy Cô. Dù sao đây cũng là một tiến bộ lớn lao trong sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi cũng đã chứng kiến một hội đoàn người Việt ở Toronto tổ chức buổi sinh hoạt hằng năm vào mùa báo hiếu Vu Lan để vinh danh các bậc cha mẹ rất có ý nghĩa và rất cảm động đối với những người có mặt ngày hôm đó. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có nhiều tờ bao Việt Ngữ và các tổ chức cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ có nghĩa cử vị tha thật cao đẹp. Đó là việc tổ chức quyên tiền giúp nhân dân Bắc Mỹ tại những nơi bị các trận thiên tai như động đất và bão lụt. Cử chỉ cao đẹp này đã làm vẻ vang người Việt ở Bắc Mỹ trong tinh thần: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ nguồn, và Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Chúng tôi lại tận mắt thấy trong một số các gia đình Việt Nam ở Bắc Mỹ có những người con dù đã ngoài 60 tuổi mà vẫn đích thân chăm nom săn sóc cha mẹ già, tuổi từ 85 đến ngoài 90. Dù có bận trăm công nghìn việc, các người con này cũng giữ cha mẹ ở nhà để phụng dưỡng chu đáo, chứ không chịu giử cha mẹ vào viện dưỡng lão như người bản xứ đã và đang làm.
Trên đây là những cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa. Tuy nhiên đó mới chỉ có một số các hội đoàn và cá nhân làm được mà thôi. Chính vì vậy mà các người hoạt động cộng đồng lâu năm đều đồng ý với nhau rằng các phụ huynh và cộng đồng người Việt phải khuyến khích con em mình tham gia mọi sinh hoạt của địa phương nơi mình đang định cư. Phải coi đất nước này ít ra cũng như quê ngoại của mình, coi mọi sinh hoạt ở địa phương cũng như sinh hoạt của gia đình mình. Có như thế chúng ta mới xứng đáng với truyền thống hiếu thảo và biết ơn của tiền nhân để lại.

Rate this post

Viết một bình luận