Ý nghĩa của bánh Chưng là gì? Tại sao những ngày tết Nguyên Đán không thể thiếu bánh Chưng, bánh giày, bánh tét?
Mỗi khi tết đến xuân về, nhà nhà trên khắp cả nước lại nô nức chuẩn bị những chiếc bánh Chưng, bánh tét truyền thống. Mặc dù đây là một hương vị rất quen thuộc nhưng có mấy ai biết về ý nghĩa của những chiếc bánh này. Hôm nay ta hãy cùng Coolmate tìm hiểu về món ăn truyền thống của dân tộc này nhé.
1.
Tại sao ngày tết lại có bánh Chưng?
Mỗi khi Tết đến Xuân về, người Việt, dù có đi đâu, ở đâu cũng không bao giờ thiếu những chiếc bánh Chưng, bánh tét trong mâm cỗ cúng gia tiên. Nếu gia đình nào không có điều kiện để tự gói bánh và làm bánh, thì nhất định phải đặt mua vài cặp bánh mới cảm thấy cái Tết trọn vẹn.
Trong cuộc sống hiện nay, ta hoàn toàn có thể mua chúng lúc nào cũng được. Nhưng chỉ trong dịp Tết, ta mới có thể thưởng thức trọn hương vị đặc biệt của những loại bánh cổ truyền này. Trong tâm thức của người Việt, bánh Chưng, bánh tét không chỉ là món ăn nữa, mà đó là truyền thống, là tinh thần, là biểu tượng mà mỗi khi ngửi thấy hương bánh thơm thơm là biết Tết đã về.
Trong những ngày lạnh của Tết miền Bắc, ta vẫn thích nhất khoảnh khắc được sum họp cùng gia đình quanh nồi bánh Chưng. Cái khoảnh khắc khi mùi củi cháy, mùi khói cay xè, hơi nóng nồng đượm đến bỏng rát hoà quyện cùng mùi hơi nước sôi và hương thơm của bánh chín là khoảnh khắc mà những đứa con xa quê chẳng thể quên được.
Cũng như thế, người dân miền Trung và miền Nam lại quen thuộc hơn với những chiếc bánh tét. Được quây quần bên nhau, cùng nhau gói những chiếc bánh tét thơm mềm, ôn lại kỉ niệm của một năm qua và ước mong về một năm mới đủ đầy, đó là tất cả những gì mà những người dân nơi đây trân trọng.
2.
Nguồn gốc bánh Chưng – Sự tích bánh Chưng bánh giày
Nguồn gốc bánh Chưng được gắn liền với sự tích bánh Chưng bánh giầy. Sự tích đó kể lại rằng trong thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, vua có ý định truyền lại ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, Vua mới hội các con đến và bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ dâng cúng tổ tiên có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho.”. Các lang nghe vậy, liền cho người đi khắp rừng núi biển sâu để tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng vua.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám. Mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi mất sớm. So với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Vì vậy, trong khi các anh em đi khắp chốn tìm thức ăn quý báu, thì chàng chỉ lủi thủi ở nhà mà chẳng biết làm thế nào để đẹp lòng vua cha.
Bỗng một hôm, chàng mơ thấy một vị thần mách rằng: “ Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý hiếm, người ta không làm ra được. Còn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương.”
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng bắt tay luôn vào việc theo lời thần chỉ dạy. Chàng chọn thứ gạo nếp thơm lừng, tròn mẩy vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói thành hình vuông, nấu thật nhừ. Để đổi kiểu, cũng thứ nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn.
Đến ngày, các lang mang sơn hào hải vị tới, chẳng thiếu thứ gì. Nhưng vua cha lại ưng ý nhất với chồng bánh của Lang Liêu. Khi nghe chàng kể lại giấc mơ, Vua đã quyết định đem hai thứ bánh ấy lễ tế Trời, Đất cùng Tiên vương. Lễ xong, Vua họp mọi người lại và nói: “Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thù, cây cỏ, muôn loài, ta đặt tên là bánh Chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ hợp ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên vương chứng giám.”
3.
Nguồn gốc bánh Tét
3.1.
Câu chuyện vua Quang Trung đánh bại nhà Thanh
Tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung tiến hành một cuộc tiến công thần tốc từ Thuận Hoá ra Thăng Long để đánh đuổi quân Thanh. Đạo quần gồm 7 vạn binh lính phải thực hiện cuộc hành quân ngày đêm không nghỉ. Để đảm bảo lương thực cho quân lính, vua Quang Trung cho người nấu bánh chưng, nhưng lại thay đổi hình dạng của bánh như bánh tét miền Nam ngày nay để tiện trong việc di chuyển.
Tuy nhiên, cũng có một truyền thuyết khác cũng tại thời điểm đó. Sau khi đánh thẳng nhà Thanh, vua Quang Trung cho quân lính nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số đó, có một người lính được người nhà gửi cho một món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh. Anh đã mang bánh lên mới vua Quang Trung và kể rằng: bánh do vợ anh ở quê nhà làm gửi cho, mỗi lần ăn bánh là một lần anh càng thương và nhớ vợ nhiều hơn. Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh mọi người gói loại bánh này để ăn tết và đặt tên là bánh Tết, vừa là để tưởng nhớ chiến thắng giặc Thanh vừa là một biểu tượng của tình cảm gia đình mỗi khi xuân về.
Về sau bánh Tết được gọi trại thành bánh Tét như ngày nay.
3.2.
Theo các nghiên cứu về văn hoá
Các nghiên cứu về văn hoá cũng có khá nhiều giả thuyết đặt ra về nguồn gốc bánh Tét. Được chấp nhận nhiều nhất có lẽ là giả thuyết rằng: bánh tét là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hoá Việt Chăm. Bánh tét có thành phần nguyên liệu giống bánh chưng theo văn hoá Việt, nhưng lại mang hình dạng của hình tượng Linga của thần Siva theo tín ngưỡng người Chăm.
Hình tượng Linga của thần Sinva trong tín ngưỡng người Chăm
4.
Ý nghĩa của bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết
4.1.
Ý nghĩa bánh chưng ngày Tết
4.1.1.
Biểu
tượng cho Đất
Theo quan niệm của người xưa, Đất là hình vuông và Trời là hình tròn, ôm lấy Đất. Tương tự như thế, bánh chưng hình vuông là tượng Đất, hay còn tượng trưng cho nguyên tố Âm. Bánh giầy hình tròn, màu trắng là tượng Trời, hay còn tượng trưng cho nguyên tố Dương. Như vậy, hai loại bánh nào thể hiện triết lí Âm Dương, quan niệm Đông phương nói chung và triết lí Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
4.1.2. Ý nghĩa tưởng nhớ cội nguồn
Bánh chưng mang nguyên tố Âm, tượng trưng cho mẹ. Bánh giầy mang nguyên tố Dương, tượng trưng cho cha. Do đó, bánh chưng bánh giầy mang ý nghĩa về truyền thống hiếu thuận, “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Hai thứ bánh đặc biệt này luôn là thức ăn cao quý và trang trọng để cúng Tổ tiên, đặc biệt là trong dịp Tết, để tưởng nhớ công ơn sinh thành to lớn của cha mẹ và các thế hệ đi trước.
4.1.3. Biểu tượng của tinh thần đoàn kết, đùm bọc và yêu thương
Cũng như nhận định của Vua Hùng “ Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau”, bánh chưng thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc và yêu thương, vốn đã là truyền thống ngàn đời của dân tộc.
Mỗi khi đất nước lâm nguy, thì bất cứ ai mang dòng máu Việt đều sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân vì lợi ích của cả dân tộc. Cứ mỗi khi vùng miền nào, cá nhân nào gặp nạn, đều có những hành động giúp đỡ, xả thân một cách rất đẹp và cao cả. Và đôi khi chẳng cần là Tết, một chiếc bánh chưng sẻ nửa cũng làm ấm lòng cả người cho và người nhận.
4.1.4. Biểu tượng của nền văn minh lúa nước
Gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ và lá dong là đặc sản ở Việt Nam, cũng là đại diện cho nền văn minh lúa nước nơi đây. Đồng thời, đây cũng là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi, là công sức lao động của những người nông dân cần cù, chịu khó. Bánh chưng vừa giản dị, bình dị, là sản phẩm của đồng quê, lại vừa là thứ quà cao quý và sang trọng.
4.1.5. Mang khát vọng về cuộc sống no đủ và sung túc
Bánh chưng là tượng Đất, trong đó có cả muông thú và cây cỏ. Như vậy, một chiếc bánh chưng có đầy đủ mĩ vị tượng trưng cho một mùa màng bội thu và cuộc sống no đủ.
Chính vì vậy, bánh chưng không thể thiếu trong ngày Tết, nhằm thể hiện sự biết ơn Trời Đất đã cho mưa thuận gió hoà, để mùa màng bội thu. Đồng thời, thứ bánh này cũng gửi gắm đến “Đất Trời” khát vọng về một năm mới an khang thịnh vượng, làm ăn phát tài và cuộc sống ấm no sung túc của gia chủ.
4.2.
Ý nghĩa bánh tét trong ngày Tết
4.2.1. Biểu tượng của thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành
Ta có thể thấy rõ ràng ở bánh Tét của sự xuất hiện của 5 màu sắc: màu xanh của lá gói bánh, màu vàng của nhân bánh đậu xanh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn. Đó chính xác là 5 màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hoả (màu đỏ), thuỷ (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Ngoài ra, bánh Tét đặc trưng của miền Tây còn rất đặc biệt với những chiếc bánh tét lá bồ ngót xanh mát mắt, bánh tét lá cẩm tím mộng mơ hoặc bánh tét ba màu. Những gam màu này đã thể hiện sức sáng tạo tuyệt vời, sự tươi trẻ và lạc quan của những người dân miền Tây về một cái Tết cổ truyền ấm no, đủ đầy.
4.2.2. Thế hiện truyền thống dân tộc
Trong những ngày đất nước còn loạn lạc, những chiếc bánh tuy đơn giản nhưng lại làm no bụng và ấm lòng các chiến sĩ nơi tiền tuyến. Nhờ những chiếc bánh này mà tình cảm vợ chồng cảm thêm khăng khít, tình yêu quê hương càng thêm mặn nồng.
Vua Quang Trung không chỉ đánh giặc giỏi, mà ngài còn là người quan tâm đến truyền thống văn hoá của dân tộc. Việc ra lệnh cho ba quân tạo nên những chiếc bánh Tét này, không chỉ nhắc nhở con cháu
4.2.3. Văn hoá bao bọc và yêu thương
Từng lớp bánh bao bọc lấy nhau, đậu xanh bọc nhân, nếp bọc đậu, lá chuối bọc nếp. Đó chính là biểu tượng của sự yêu thương, đùm bọc, lá lành đùm lá rách truyền thống của dân tộc ta.
Cùng với đó, đây cũng là biểu tượng của gia đình Việt điển hình. Hình ảnh bà và mẹ tỉ mẩn gói từng đòn bánh tét, đặt trọn yêu thương và gửi cho những người chồng, người con xa quê. Những đòn bánh được nâng niu một cách nhẹ nhàng, như tình cảm của mẹ bao bọc đàn con, khiến bao người con xa quê phải nức lòng mỗi dịp Tết đến.
4.2.4.
Ước mong về sự ấm no, hạnh phúc
Thịt mỡ, đậu xanh, nếp trắng đều là những nguyên liệu quen thuộc của nền văn minh lúa nước. Chúng được quyện chặt vào nhau trong những đòn bánh Tét thể hiện ước muốn sự no ấm, đủ đầy. Biểu tượng của sự ấm no đó sẽ được đặt trên bàn thờ tổ tiên, được đặt trong mâm cổ đêm giao thừa và được gửi làm quà cho người thân, bạn bè.
Qua bài viết này, chắc hẳn bạn đã hiểu ý nghĩa bánh chưng bánh giày, bánh tét rồi nhỉ? Những thứ bánh bình dị mà cao quý này sẽ luôn là truyền thống ngàn đời của dân tộc ta.