Ý nghĩa của thuyền Bát Nhã | Tâm Linh Đại Việt-HPSEO – Website tin tức

Ý nghĩa của thuyền Bát Nhã | Tâm Linh Đại Việt

Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền Trí tuệ do pháp nhiệm của Phật tạo nên để rước những linh hồn đắc đạo lên cõi CLTG.

Thuyền: Chỉ chung những loại thuyền, tàu, ghe lưu thông trên biển thường xuyên trên sông. Bát Nhã: do phiên âm từ tiếng Phạn: Prajnâ, dịch ra hán văn là Trí huệ, tức thị sự hiểu biết rốt ráo, thông suốt tất cả từ cõi người tới cõi trời. Từ ngữ Trí huệ chưa đạt hết ý nghĩa của chữ Prajnâ (Bát Nhã), nên những nhà tôn giáo vẫn thường tận dụng danh từ Bát Nhã hơn là Trí huệ.

Bát Nhã là trí huệ bực nhứt, thoát ra và vượt lên trước lên khỏi Tham, sảnh, Si, dứt những mê lầm, tự mình thông đạt, tự mình hiểu biết hết những lẽ. Đạt được Trí huệ Bát Nhã là đắc đạo.

tín đồ đang xem: Thuyền bát nhã là gì

Thuyền Bát Nhã là từ ngữ để nói ví dụ so sánh. Con người sống trong nhân gian đầy ô trược nên bị tấm màn vô minh che lấp, để cho lục dục thất tình cám dỗ làm cho sai. Chừng nào phá bỏ được tấm màn vô minh đấy thì vượt lên trước lên khỏi sự cám dỗ của lục dục thất tình, trở lại làm chủ chúng nó,lúc đó con người hết vô minh, tức nhiên đạt được Trí huệ, và cái Trí huệ đấy ví như chiếc Thuyền Bát Nhã, đưa con người tới cõi Cực Lạc Niết Bàn, đắc đạo thành Tiên Phật.

Trong thời ĐĐTKPĐ, Thuyền Bát Nhã do Đức Phật Di-Lạc làm chủ thuyền, rước những chơn hồn với đầy đủ công đức, vượt lên trước qua bể khổ, thoát khỏi luân hồi, tới cảnh TLHS mà Phật gọi là Cực Lạc Niết Bàn, Tiên gọi là Bồng Lai tiên giới mà an hưởng những điều cực lạc.

Trong TNHT, với 4 câu thơ tả Thuyền Bát nhã: Khuôn thuyền Bát nhã không phải chìm, Nổi quá như bông, nặng trĩu quá kim. với đạo trong muôn ngồi cũng đủ, ko duyên một đứa cũng là chìm.

Theo thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, trên sông Ngân Hà, một nhánh của biển khổ nơi cõi thiêng liêng, Đức Quan Âm người tình Tát vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương Phật, chèo chiếc Thuyền Bát Nhã qua lại để độ sanh, rước những người đầy đủ phước đức đi qua biển khổ, tới cõi TLHS.

Theo bài thài hiến lễ Tam Nương trong Lễ Hội Yến DTC, Tam Nương cũng với trách nhiệm chèo chiếc Thuyền Bát Nhã rước người phước đức vượt lên trước qua biển khổ: Biển mê lắt lẻo con thuyền, Chở che vị khách tục, cửu tuyền ngăn sông.

Trong truyện Tây Du Ký, lúc thầy trò Tam Tạng tới bến Lăng Vân, ko thể đi lên cầu để qua bờ bên kia được. Đang lúc bối rối thì sẽ xuất hiện vị Phật là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn chèo chiếc thuyền ko đáy tới rước. Tam Tạng thấy thuyền ko đáy nên ko dám bước xuống, Tề Thiên Đại Thánh bỗng xô Tam Tạng một cái, Tam Tạng trượt xuống nước, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đỡ Tam Tạng lên thuyền, và chèo thuyền qua sông, lúc tới giữa sông thì gặp một xác người đang trôi xuống, xem kỹ thì đó đó là xác phàm của Tam Tạng. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn chúc mừng Tam Tạng, sẽ bỏ xác trần, đắc thành Phật vị.

Thuyền qua tới bờ bên kia, Tam Tạng nhẹ nhõm bước lên bờ cùng với ba đồ đệ. lúc quay nhìn lại, thấy con thuyền và vị Phật đấy đều biến mất. Thế mới gọi là pháp trí huệ quảng đại đưa thầy trò lên bờ Cực Lạc.

Con thuyền ko đáy đấy đó là chiếc Thuyền Bát Nhã mà người chèo thuyền là Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn:

Cho nên trong bài Kinh Cầu Hồn lúc lâm chung với câu: tây thiên Tiếp Dẫn Đạo nhơn, Phướn linh khai mở nẻo đường kính trắng Lôi Âm.

Đức Chí Tôn với lời khuyên những vị đắc đạo rồi, nên nhìn lại nhân gian mà thương xót nhơn sanh đang trầm luân trong bể khổ mà mở lòng tương hỗ: TNHT: Bát Nhã xin con trở mái chèo, Thìn lòng thương lấy chúng sanh eo. Trăm năm không hẳn nên hiền từ, Tấn nẻo chông gai khá lựa dèo. Bí pháp và Thể pháp của thuyền Bát Nhã:

■ Bí pháp: Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền rồng qua lại trên biển khổ nơi cõi thiêng liêng để rước những chơn hồn với đầy đủ phước đức, từ bờ bên nây của biển khổ (thử ngạn) là bờ luân hồi, sang trọng qua bờ bên kia (bỉ ngạn) là bờ đắc đạo giải thoát, để đi vào cõi TLHS. Đây là chiếc thuyền để cứu độ những chơn linh trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

■ Thể pháp: Thuyền Bát Nhã được đóng bằng gỗ, với kiểu cách là một con rồng vàng, nơi chính giữa của mình rồng chứa lên một cái nhà vàng để đặt quan tài người chết, chở vào nghĩa trang chôn chứa.

Vì với Thể pháp và Bí pháp huyền diệu như vậy nên ko thể gọi Thuyền Bát Nhã là chiếc “xe tang” được.

● Nơi Châu Đạo Sađec, Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền rồng, đậu tại bến sông Sađec, ngay trước Thánh Thất, trên thuyền với gắn máy tàu để điều khiển xe trên những sông rạch, phục vụ việc chở quan tài người chết đưa đi chôn chứa. lúc Thuyền Bát Nhã điều khiển xe trên sông, chúng ta thấy một hình ảnh rất đẹp, rất linh động, tương tự như thuyền của những vua chúa thời xưa.

● Nơi Châu Đạo Sài Gòn, Thuyền Bát Nhã được đóng trên một sườn xe tương đối 4 bánh, với động cơ chạy được trên đường kính trắng tương tự những loại xe vận tải khác. Thuyền rồng mà chạy ngờ ngờ trên đường kính trắng nhựa làm cho nhiều người lấy làm lạ, tuy nhiên đây chỉ là Thể pháp tượng trưng mà thôi.

● Nơi vùng Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh, Thuyền Bát Nhã được đóng trên một cái khung 2 bánh, tương tự như cái rờ mọt của xe tương đối, phía hai bên hông thuyền với gắn hai sợi dây thừng to và dài để cho những Đạo tỳ kéo thuyền đi lừ đừ trên đường kính trắng phố, đầu rồng và đuôi rồng lắc lư theo nhịp đi, nên từ xa nhìn vào thấy quang cảnh đấy rất ngoạn mục và huyền bí.

Năm Ất Hợi (1935), tức là sau 10 năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn mới ban cho Kinh Tận Độ vong linh.

“Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: sẽ trải qua mười năm, Chí Tôn mới mở cơ Tận độ. Cơ Tận độ nhơn sanh duy Tính từ lúc thời khắc ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi.” (Lời Tựa quyển Tân Kinh)

Sau lúc Đức Chí Tôn ban cho Kinh Tận độ xong thì Đức Phạm Hộ Pháp ra lịnh cho Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa làm lễ khai Thuyền Bát Nhã tại vị khách Đình Tòa Thánh Tây Ninh, tức là khai pháp Thuyền Bát Nhã (Bí pháp và Thể pháp) tùng theo Cơ Tận độ của Đức Chí Tôn.

Trong sự kiện nầy, Ngài Khai Pháp nói tới sự tích của Thuyền Bát Nhã và giảng nghĩa về Chèo Thuyền, xin chép nguyên văn ra sau đây:

Lời giảng nghĩa về Chèo Thuyền Bát Nhã của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, chưởng quản CQPT, tại vị khách Đình, ngày 13-10-Ất Hợi (dl 8-11-1935).

Kính Đức Hộ Pháp, Kính Hội Thánh Cửu Trùng Đài, những Ban: Bộ Nhạc và Tổng Trạo, mấy em nam nữ.

ngày hôm nay là ngày 13 tháng 10 Ất Hợi, nhằm lễ kỷ niệm Khai Đạo hằng năm, lại nữa là ngày khai Thuyền Bát Nhã tại vị khách Đình.

Bần tăng vâng lịnh Đức Hộ Pháp dẫn giải cho nhơn viên hiện với trách nhiệm trọng yếu trong Bát Nhã thuyền được rõ: Lấy theo Thể pháp, những em đây là nhơn viên của Đức Phật Di-Lạc tượng trưng thể pháp nơi mặt thế nầy, nương lấy khuôn Thuyền Bát Nhã trong thời kỳ hạ nguơn hầu mãn khởi đầu thượng nguơn Tứ Chuyển.

Về hữu vi, tượng trưng đưa xác người vào nơi cực lạc giới, gọi là kiếp thoát tục; mặt kia về nhiệm mầu vô vi là Cơ Tận độ cứu rỗi cửu nhị ức nguyên nhân qui hồi cựu vị, cùng những chơn hồn tiền vãng hậu vãng và những chơn hồn vật loại đạt tới phẩm nhơn lúc thoát xác được siêu thoát Thượng giới.

Tưởng lại phần đông trong thiên hạ sẽ với xem qua cốt chuyện Tây Du, đường kính trắng Tam Tạng thỉnh kinh đông độ, bốn thầy trò cùng đi tiếp đây tây thiên, dựa mé sông giang hà để bước lên chiếc Nại Hà kiều rất lắt lẻo khó đi, những trò đều với phép hóa thân nên qua được, riêng thầy Tam Tạng ko biết nào qua.

Đương lúc quanh quẩn tấn thối lưỡng nan, tự nhiên thấy với một người chèo thuyền rồng tới vừa thấy rõ, lạ một điều là thuyền ko đáy mà nổi phao trên mặt nước. Thầy Tam Tạng lấy làm lạ và ái ngại ko hiểu mình bước xuống thuyền với được ko.

.: &quotIn Conclusionvàamp;quot tức thị gì: Định Nghĩa, Ví Dụ trong Tiếng Anh

Bao lần dụ dự ko quyết định được, tới rốt cuộc thầy Tam Tạng buộc lòng để chân xuống thuyền. Vì còn mang xác thân trần tục nên lúc ban sơ phải chịu nhiều khó khăn chênh nghiêng mất thăng bằng. Tuy vậy, thỉnh thoảng sự bình tỉnh vững vàng trở lại như bao người ở kề bên, thầy Tam Tạng trực nhìn xuống dòng sông nước chảy thấy một xác người chết trôi qua bèn than rằng: Nơi đây tiếp đây nước Phật, sao còn với người chết trôi như vậy!

Tôn Ngộ ko liền đáp rằng: đấy là cái xác của thầy đó vậy. Bởi dày công tu luyện, tới ngày khu dã ngoại công viên quả mãn, nên cổi xác trần thoát kiếp, vì ở trần thế mang xác phàm hữu hình hữu hoại và nhờ đó mà phân biệt phàm Thánh trong lúc mình sẽ đắc đạo.

Thuyền rồng ko đáy kia, Phật giáo gọi là Thuyền Bát Nhã và người chèo Phật danh gọi là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.

Thuyền Bát Nhã với là do một bèn sen (một cánh bông sen) của Đức Phật Tổ nơi CLTG, Đức Phật tận dụng tinh hoa của Tam muội hỏa mà trở thành, đấy là bí pháp của nhà Phật.

Hai chữ Bát Nhã, Phật tông nguyên tắc trong kinh gọi là Trí huệ, để không ngừng tăng thêm sự thông minh cho những bậc chơn tu, cũng ám chỉ là Thuyền Từ đưa người thoát tục.

Trải qua bao kỷ nguyên, người tu đắc đạo cũng nương lấy Bát Nhã thuyền do nhiệm mầu thiêng liêng mà về nước Phật thường xuyên tới cõi Hư Vô tịch diệt.

Thuở Hỗn Độn, lúc Trời Đất phân thứ bậc rồi mà chưa với loài người, Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Minh Sư gọi là Lão Mẫu, vâng lịnh Đức Thượng Đế nhóm ngự triều Đại hội nơi Kim Bồn, phòng định 100 ức nguyên nhân xuống trần, tận dụng Ngọc Lộ Kim Bàn trụ những nguyên nhân cho xuống thế lập đời.

Trước thời khắc đó, Lão Mẫu tức là Diêu Trì Kim Mẫu, kêu toàn cả linh căn chơn tánh dự Hội Yến Bàn Đào, ban cho mỗi vị một cái túi gọi là Vạn Bửu Nang, Trong số đó với 8 món báu là: Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, và căn dặn lúc xuống trần thế, rủi mất một món là về cùng MẸ ko đặng.

Lão Mẫu tận dụng Bát Nhã thuyền chở toàn linh căn và 8 món báu đấy đưa xuống lập đời. với bài kệ rằng: Linh căn ngày đó xuống trần ai, Cái cái vui mừng nhập mẫu thai. Vì mất Bửu nang mê nghiệp hải, nào tỉnh đặng trở hồi lai.

Bên kia với Đại Tiên hiệu là Cù Tán Đởm thường xuyên là Kim Quang Sứ, thấy Phật Mẫu cho chơn linh xuống trần thì ông cũng xuống trần với dẫn theo 5 chơn linh quỉ vị trở thành:

Kim là tiền nong. Mộc là sắc đẹp. Thủy là rượu ngọt. Hỏa là nóng giận. Thổ là nha phiến.

Mỗi chơn linh quỉ vị đều biến ra 5 mùi vị không giống nhau cho những nguyên căn say mê mà quên cả những Bửu nang.

Con người to lên thấy tiền thì ham, thấy sắc lịch thì mê, thấy rượu ngọt thì ưa, mà nó giục cho con người nóng giận và say mê nha phiến, chước quỉ mưu tà, hằng xúi giục bày ra vô vàn sự khoái lạc nơi trần khổ chẳng xiết, nên chất linh căn vì lưu luyến hồng trần,vui say mùi vị trần gian mà quên . cội.

vì vậy cho nên Thánh nhân ra đời lập Tam giáo đạo cũng qui tụ căn phiên bản trong 8 món báu để tỉnh giác.

Phật giáo dạy phải chọn Tam qui Ngũ giới. Tiên giáo dạy phải vẹn Tam nguơn Ngũ hành. Thánh giáo dạy phải gìn Tam cang Ngũ thường.

Để thức tỉnh những linh căn nhớ . cội 8 món báu đấy mà về, ai được may duyên sớm ngộ đạo, mới lên Bát Nhã thuyền mà trở về cựu vị, đúng như bài thi của Đức Chí Tôn sẽ dạy rằng: Khuôn thuyền Bát nhã không phải chìm, Nổi quá như bông, nặng trĩu quá kim. với đạo trong muôn ngồi cũng đủ, ko duyên một đứa cũng là chìm.

* Thời kỳ Thánh đức:

Sơ khai Long Hoa Đại Hội, Đức Di Lạc, kiếp Tiên vị mệnh danh là Hoàng Cực Chủ Nhân, lãnh lịnh Lão Mẫu tức là Diêu Trì Kim Mẫu thường xuyên là Thiên Hậu buổi nọ, Ngài làm chủ Thuyền Bát Nhã chở những nguyên nhân xuống thế, lần đầu 24 chuyến thuyền, hai lần sau mỗi lần 6 chuyến, đúng như quyển kinh thứ nhứt và thứ nhì Ngọc Lộ Kim Bàn.

Nguơn Thánh đức gọi là: Nhứt Kỳ Phổ Độ:

Giáo làm chủ Phật: Nhiên Đăng Cổ Phật. Giáo làm chủ Tiên: Thái Thượng Đạo Quân. Giáo làm chủ Thánh: Văn Tuyên Đế Quân.

những vị Giáo chủ sẽ sáng khai nền đạo, lập thành qui điều, pháp luật, đáng tin cậy trật tự cho nhơn loại tiến bước trên đường kính trắng tu tỉnh. Đức Chí Tôn Ngài mới dạy: Khai Long Hoa Đại Hội Nhứt Kỳ nên với câu: Sơ Hội Long Hoa Thanh Vương Đại Hội Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn. Đức Nhiên Đăng làm chủ hội, điểm đạo chỉ với 6 ức nguyên nhân đắc đạo.

* Nhị Kỳ Phổ Độ:

Thời kỳ văn minh tiến hóa từ đấy mới nổi danh trong Tam giáo:

Phật thì sẽ xuất hiện Đức Thích Ca làm Giáo chủ. Tiên thì sẽ xuất hiện Đức Lão Tử làm Giáo chủ. Thánh thì sẽ xuất hiện Đức Khổng Tử làm Giáo chủ.

Sau 551 năm, Ngài cho Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh, cũng thời Nhị Kỳ.

Sau lúc thành lập pháp luật qui điều, Ngài mới khai Long Hoa Nhị Kỳ Phổ Độ, với câu: Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Đại Hội Di-Đà Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.

Đức Di-Đà làm chủ hội, điểm đạo được 2 ức nguyên nhân đoạt pháp, phần nhiều là môn đồ của Lão Tử đắc đạo, còn 92 ức nguyên nhân luống chịu đọa trần.

* Tam Kỳ Phổ Độ:

tới thời kỳ Hạ nguơn mạt kiếp, tức là thời kỳ qui cổ, chính mình Đức Chí Tôn giáng trần, tận dụng huyền diệu cơ bút, để Tam Trấn uy nghiêm thay cho Tam giáo lập Đạo vô vi, ko hình thể như trước khi, gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Tham khảo thêm: Tìm Hiểu Ý Nghĩa Chỉ Số PDW Là Gì Trong Xét Nghiệm Máu

Đức Phật Quan Âm chưởng quản về Phật giáo. Đức Lý Thái Bạch Tiên Trưởng chưởng quản Tiên giáo. Đức Quan Thánh Đế Quân chưởng quản Thánh giáo, gọi là Nho Tông Chuyển Thế.

Nhơn thời Hạ nguơn nầy, do cơ bút mà biết được nguyên nhân đắc đạo trong hai kỳ trước. Những nguyên nhân đắc đạo tới tự nguyện nơi Ngọc Hư Cung giáng trần, chịu mạng lịnh nơi Đức Di-Lạc Vương Phật, lo cứu rỗi 92 ức nguyên nhân còn say đắm nơi trần.

lúc này nói lại Thể pháp cuộc Chèo Thuyền Bát Nhã, phận sự của viên chức trong thuyền với:

Tổng Lái Tổng Mũi Tổng Thương Tổng Khậu và 12 Bá Trạo.

– Tổng Lái: là chơn linh Hắc Sát Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp là chơn khí của Hộ Pháp.

Tổng Lái tượng trưng Bát Quái Đài.

– Tổng Thương: là chơn linh Huỳnh Long Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp là chơn khí của Thượng Sanh.

Tổng Thương tượng trưng cho Cửu Trùng Đài.

– Tổng Mũi: là chơn linh của Bạch Hổ Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp là chơn khí của Thượng Phẩm.

Tổng Mũi tượng trưng cho Hiệp Thiên Đài.

– Tổng Khậu: tượng trưng nhơn sanh, tức là chơn hồn của chúng ta, thấy tánh tình của Tổng Khậu vô chừng, vui buồn chẳng định, vả chăng trong thời biến chuyển loạn lạc, phải chịu dưới phép sai làm cho của lục dục thất tình, vì danh lợi tự đem mình tới chỗ trụy lạc, vì vật chất xa hoa hấp dẫn.

– Mười hai Bá Trạo: số lượng 12 là bí pháp, số riêng của Đức Chí Tôn. Ngài tóm Thập nhị Khai Thiên nơi tay, tức là Thập nhị Thời Thần nơi Bạch Ngọc Kinh. Còn Thể pháp là Thập nhị Thời Quân HTĐ mà chúng ta sẽ biết trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Vậy 12 Bá Trạo tượng trưng Thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, mà biến tướng Càn Khôn thế giới, làm cho bát ngát to thêm lên vũ trụ mênh mông.

Những vị vừa kể trên, vừa chèo vừa hát rập ràng, theo chơn truyền của đạo là Thể pháp.Thể pháp với hành thì Bí pháp mới tựu. đấy là “dĩ huyễn độ chơn”.

Thể pháp và Bí pháp lúc nào thì cũng phải đi đôi, cũng như người với xác và hồn phải tương liên, bằng chẳng vậy, với xác ko hồn là điên, với hồn ko xác là vị đó vậy.

Đức Chí Tôn là chúa tể CKVT, hoá sanh vạn vật, cầm quyền thiêng liêng cũng như hữu hình, với lòng Đại từ đại bi, chẳng nỡ ngồi nhìn con cái của Ngài phải chịu trầm luân khổ hải, nên Ngài tận dụng Bí pháp định cho Tam vị Thần xuống thế tượng trưng Thể pháp là: Tổng Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương, lái vững khuôn thuyền Bát Nhã để độ dẫn những chơn linh nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân, và những chơn hồn tức là trong chúng sanh, dầu xiêu lạc nơi nào thì cũng tìm rước về hội ngộ cùng Thầy.

Trong thời kỳ Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, là Đại Ân Xá Kỳ Ba, chính mình Đức Chí Tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế tận dụng huyền diệu cơ bút mở Đạo Cao Đài tại nước Việt Nam, qui Tam giáo hiệp Ngũ chi, tạo đời Thánh đức, dụng Nho Tông Chuyển Thế với chủ nghĩa tận độ chúng sanh trên quả Địa cầu 68 nầy qui hồi cựu vị, chẳng phân biệt nòi giống thường xuyên chủng tộc.

Tóm lại:

Trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tận dụng Thuyền Bát Nhã với Bí pháp huyền vi mầu nhiệm thiêng liêng, vì Đức Di-Lạc Vương Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn, Đức Ngài làm chủ Thuyền Bát Nhã, rước những bậc nguyên nhân từ Thất thập nhị Địa trở về.

Đức Phật ngự trên thuyền, lôi kéo toàn linh căn chơn tánh của cửu nhị ức nguyên nhân hãy mau tỉnh ngộ về cửa nầy, nương nơi Thuyền Bát Nhã trở về Lôi Âm Tự và Bạch Ngọc Kinh mà hội ngộ cùng Thầy.

Còn về Thể pháp, Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thọ mạng cùng Đức Chí Tôn tạo Thuyền Bát Nhã nơi mặt thế nầy là tượng trưng Thể pháp, độ dẫn Bát hồn: từ Vật chất hồn, Thảo mọâc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn, do Kim Bàn Phật Mẫu vận chuyển hóa ra tô đẳng cấp chơn hồn, đúng như Kinh Phật Mẫu dạy: Trung khổ hải độ thuyền Bát Nhã, Phước từ bi giải quả trừ căn. Huờn hồn chuyển đọa vi thăng, Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.

Theo nghĩa bốn câu kinh trên là:

Thuyền Bát Nhã tượng trưng nơi mặt thế nầy để rước xác tục đưa qua khỏi bến sông mê bể khổ trần ai, huờn hồn phục sanh, siêu thoát nơi miền Thánh đức.

Tòa Thánh, ngày 13 tháng 10 năm Ất Hợi. (dl 8-11-1935) KHAI PHÁP Trần Duy Nghĩa. những đôi liễn trên Thuyền Bát Nhã:

– Đôi liễn nơi mặt trước mui Thuyền Bát Nhã: ◘ 萬事曰無肉體土生還在土 ◘ 千年自有靈魂天賜返回天 ■ Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ, ■ Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên. tức thị: ■ Muôn sự đều ko, xác thịt do Đất tiết ra thì huờn lại Đất, ■ Ngàn năm tự với, linh hồn do Trời ban cho thì trở về Trời.

– Đôi liễn nơi mặt sau mui Thuyền Bát Nhã: ◘ 有體生而從四苦 ◘ 無形死者過三途 ■ Hữu thể sanh nhi tùng Tứ khổ, ■ Vô hình tử giả quá Tam đồ. tức thị: ■ với thân thể, sống thì phải tùng theo Tứ khổ, ■ Chết thì ko còn hình thể, linh hồn qua khỏi ba đường kính trắng đày đọa.

Sưu tầm

.: Pin tích điện mặt trời là gì? và những điều cần biết – GIVASOLAR

.: Pin tích điện mặt trời là gì? và những điều cần biết – GIVASOLAR

tín đồ thấy bài viết thế nào?

Rate this post

Viết một bình luận