Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp – Tài liệu text

Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.36 KB, 7 trang )

<span class=’text_page_counter’>(1)</span><div class=’page_container’ data-page=1>

82

HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0026

Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 82-93
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

MỐI QUAN HỆ GIỮA CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP CHUYÊN MÔN
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN
VÀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THƠNG

Nguyễn Hồng Đoan Huy

Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên phổ thông là nhân tố quan trọng tác
động trực tiếp lên chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thơng. Các hình thức phát
triển nghề nghiệp giáo viên ở nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung hiện nay
được tổ chức một cách đa dạng và phong phú; tuy nhiên hiệu quả mang lại từ mỗi
một hình thức này cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Tổ chức cộng đồng học tập
chuyên môn của giáo viên ngay tại các trường phổ thông là một trong những hướng
đi mới và được cơng nhận tại các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Thơng qua phân
tích các nghiên cứu quốc tế, bài báo giới thiệu về “cộng đồng học tập chun mơn”
dưới góc nhìn của một hình thức phát triển nghề nghiệp cho giáo viên, trong đó khái
quát về khái niệm, đặc điểm cũng như làm rõ mối quan hệ giữa việc tổ chức cộng
đồng học tập này với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở
nhà trường phổ thơng.

Từ khóa: Cộng đồng học tập chun mơn, năng lực của giáo viên, phát triển nghề
nghiệp giáo viên, chất lượng giáo dục phổ thông.

1. Mở đầu

Phát triển nghề nghiệp giáo viên và nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ
thơng ln là có mối quan hệ rất chặt chẽ và chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố tác động.
Làm thế nào để đội ngũ giáo viên có thể nâng cao năng lực nghề nghiệp một cách liên tục
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà giáo dục trên thế giới. Rất nhiều loại hình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên
được ứng dụng đã và đang mang lại những hiệu quả nhất định, trong đó, xây dựng và triển
khai thực hiện hình thức “cộng đồng học tập chuyên môn” của giáo viên ở nhà trường phổ
thông cũng đã cho thấy những tác động tích cực khơng chỉ đối với việc phát triển nghề
nghiệp của giáo viên mà còn đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

Cụm từ “học tập chuyên môn” (Professional Learning) bắt đầu được sử dụng trong
những năm 1990 sau khi Peter Senge – The Fifth Discipline (1990) [16] phổ biến ý tưởng
về các tổ chức học tập. Sau đó, Charles B. Myers và Lynn K. Myers sử dụng cụm từ “cộng
Ngày nhận bài: 1/2/2019. Ngày sửa bài: 19/2/2019. Ngày nhận đăng: 2/3/2019.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(2)</span><div class=’page_container’ data-page=2>

(2)

Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp…

83
đồng học tập chuyên môn” ở nhà trường trong cuốn sách xuất bản năm 1995, cuốn sách
đó có tên là “Nhà giáo dục chuyên nghiệp: Giới thiệu mới về giảng dạy và trường học”
[12]. Một năm sau Charles B Myers đã trình bày một báo cáo tại cuộc họp thường niên
của Hiệp hội nghiên cứu giáo dục Mỹ mang tên “Về loại hình trường phổ thơng phát triển
nghiệp vụ – Professional Development Schools”, nhà nghiên cứu này đã đề xuất một hình
thức phát triển chun mơn nghiệp vụ cho giáo viên ngay tại trường phổ thông nơi giáo
viên đang giảng dạy. Năm 1997, Shirley M. Hord đã công bố một bài báo mang tên
“Cộng đồng học tập chuyên môn: Cộng đồng liên tục hỏi và cải tiến” [6]. Kể từ cuối
những năm 1990 đến nay, những công trình nghiên cứu và tài liệu cơng bố liên quan đến
cộng đồng học tập chuyên môn cũng lần lượt được cơng bố trong đó có đề cập đến những

tác động mà mơ hình này mang lại đối với chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung
và sự phát triển nghề nghiệp chuyên môn của giáo viên nói riêng.

tác động mà mơ hình này mang lại đối với chất lượng giáo dục của nhà trường nói chungvà sự phát triển nghề nghiệp chuyên môn của giáo viên nói riêng.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Cộng đồng học tập chuyên môn

2.1.1. Khái niệm cộng đồng học tập chuyên môn

Cho đến nay, không có định nghĩa thống nhất về cộng đồng học tập chuyên môn –
Professional Learning Community (PLC). Tùy vào mỗi bối cảnh nghiên cứu và ứng dụng
khác nhau, PLC có thể được hiểu theo nhiều nội hàm khác nhau. Tuy nhiên, dường như
có sự đồng thuận rộng rãi trên bình diện quốc tế khi cho rằng PLC là một khái niệm dùng
để chỉ một nhóm người cùng chia sẻ và cùng học hỏi một cách nghiêm túc về công việc
chuyên môn của họ theo cách thức liên tục phản biện, cộng tác, học hỏi và trên tinh thần
xây dựng để cùng nhau phát triển (Mitchell & Sackney, 2000 [11]; Toole & Louis, 2002
[20]) và hoạt động theo tập thể (King & Newmann, 2001) [8].

Dựa trên tóm tắt các cơng trình nghiên cứu đã công bố liên quan, Hord (1997, p.1)[6]
đã đúc kết và định nghĩa về PLC với tư cách là “cộng đồng chuyên môn của những người
cùng nhau tham gia học tập” (Astuto, Clark, Read, McGree & Fernandez, 1993) [1], “…
trong đó, giáo viên cùng một trường học bao gồm cả cán bộ quản lí, liên tục tìm kiếm và
chia sẻ việc học và hành động để thực hiện hoạt động học đó của họ. Mục tiêu hành động này
là nâng cao hiệu quả chuyên môn, đảm bảo mục đích cuối cùng là lợi ích của học sinh; do đó,
mơ hình này cũng có thể được gọi là cộng đồng của những đề xuất và cải tiến liên tục”.

Theo đó, nội hàm của khái niệm PLC – Professional Learning Community cịn có thể
rút ra được từ chính tên gọi của nó:

– Professional: Một cộng đồng học tập chuyên môn là cơng việc của những người làm

việc chun mơn, có nghĩa thành viên của một PLC phải chấp nhận một tinh thần, thái độ

chuyên nghiệp, tập trung vào mục tiêu là lợi ích của học sinh và hỗ trợ học sinh học tập.
Nó cịn có nghĩa là PLC được vận hành thông qua tri thức và nghiên cứu. Giáo viên thảo
luận làm thế nào để vận dụng linh hoạt những đổi mới giáo dục vào công tác giảng dạy
của mình, giáo viên thực hiện nghiên cứu dựa trên chính những điều tra, vận dụng trên
thực tiễn lớp học của họ.

– Learning: Cộng đồng học tập chuyên môn là đều nhằm chỉ đến việc học. Học dành

</div>
<span class=’text_page_counter’>(3)</span><div class=’page_container’ data-page=3>

(3)

Nguyễn Hoang Đan Huy

84

nhà trường. Học tập chuyên môn của giáo viên bao gồm học dựa trên kiến thức từ thực
tiễn, kiến thức từ nghiên cứu.

– Community: Cộng đồng học tập chun mơn dựa trên tầm nhìn trong đó học tập có
hiệu quả hơn nếu nó được thực hiện trong một nhóm các chuyên gia. Nhà trường có thể cung
cấp những điều kiện về vật chất và tinh thần để hỗ trợ hoạt động của cộng đồng học tập.

Tựu trung lại, có thể nói rằng, trong mơi trường nhà trường, cộng đồng học tập
chuyên môn là một tập thể gồm những giáo viên, cán bộ quản lí nhà trường cùng nhau
học hỏi, hợp tác, chia sẻ trong việc tiếp nhận, nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo những ý
tưởng, kiến thức liên quan đến dạy học và giáo dục để cùng nhau phát triển, hướng đến
mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của học sinh.

2.1.2. Đặc trưng của cộng đồng học tập chuyên môn ở nhà trường phổ thông

Báo cáo năm 2005 của Bộ Giáo dục Ontario (Canada) có tựa đề “Giáo dục cho Tất
cả” cho thấy các đặc điểm của PLC như sau:

 Chia sẻ tầm nhìn và giá trị dẫn đến cam kết tập thể của cán bộ nhà trường, được

thể hiện trong công tác hàng ngày

 Đề xuất những giải pháp tích cực, tạo nên sự cởi mở đón nhận những ý tưởng mới

 Làm việc hợp tác để đạt được các mục tiêu chung

 Khuyến khích thử nghiệm để thúc đẩy cơ hội học tập

 Cùng nhau nghiên cứu về thực trạng, đề xuất các nhiệm vụ cần thực hiện để cải

thiện thực trang, qua đó nâng cao năng lực chuyên môn

 Cải tiến liên tục dựa trên đánh giá kết quả học tập

 Phản ánh để nghiên cứu tác động cải tạo thực tiễn

Theo nghiên cứu của Hord (2004) [7] và Louis (1995) [9], PCL có những đặc điểm
như sau:

 Có giá trị và tầm nhìn chung

Có một tầm nhìn chung và đồng thuận về mục mục tiêu hoạt động là điều quan trọng
nhất đối với một cộng đồng học tập chuyên môn. Đặc biệt, tất cả các thành viên trong
cộng đồng học tập đều cùng có “một sự tập trung liên tục” đối với việc học của chính họ
(Hord, 2004). Louis (1995) đề xuất rằng cùng nhau chia sẻ những giá trị chung là nền

tảng để đồng thuận trong việc ra quyết định trong tập thể.

tảng để đồng thuận trong việc ra quyết định trong tập thể.

 Trách nhiệm tập thể

Trong nhiều tài liệu đã công bố, các nhà nghiên cứu hầu như đều đồng tình ở một
đặc điểm của PLC, đó là các thành viên của PLC phải liên tục chịu trách nhiệm tập thể
cho việc học của mỗi thành viên. Họ cho rằng trách nhiệm tập thể đó có thể giúp duy trì
cam kết, tạo nên những áp lực một cách đồng thời và giảm bớt sự cô lập giữa các giáo
viên với nhau.

 Phản ánh yêu cầu một cách chuyên nghiệp

</div>
<span class=’text_page_counter’>(4)</span><div class=’page_container’ data-page=4>

(4)

Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp…

85
lẫn nhau và phân tích trường hợp, lập kế hoạch chung và cùng phát triển chương trình
giảng dạy; tìm kiếm kiến thức mới, chia sẻ kiến thức mới cập nhật thông qua tương tác
với nhau; áp dụng các ý tưởng cũng như những thơng tin mới hữu ích để hỗ trợ nhau
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn dạy học và giáo dục, qua đó đáp ứng nhu cầu của
học sinh…

 Hợp tác

Điều này liên quan đến sự tham gia của các thành viên trong hoạt động phát triển một
cách hiệu quả, thay vì chỉ đơn thuần là những sự kết hợp có qua có lại mang tính hình
thức. Chẳng hạn như, giáo viên cùng nhau đánh giá và chia sẻ phản hồi liên quan đến
đánh giá đó. Cảm giác phụ thuộc lẫn nhau là trọng tâm của sự hợp tác: mục tiêu của việc
dạy tốt sẽ không thể đạt được nếu thiếu sự cộng tác giữa giáo viên với nhau, giữa giáo
viên với cán bộ quản lí của nhà trường.

 Thúc đẩy hoạt động học tập theo nhóm và cá nhân

Tất cả giáo viên đều là những người học hỏi từ đồng nghiệp của họ (Louis và cộng sự,
1995). Trong nghiên cứu “Learning enriched schools” của Rosenholtz (1989), ‘‘tự đổi
mới chuyên môn’’ là ‘một sự kiện xã hội chứ không phải là sự cô độc”. Học tập tập thể là
điều hiển nhiên trong xã hội lồi người, thơng qua việc sáng tạo tri thức tập thể (Louis,
1994), nhờ đó cộng đồng học tập tương tác, tham gia vào đối thoại nghiêm túc và thảo
luận về thông tin và dữ liệu mà họ cùng thu được.

Từ các cơng trình nghiên cứu liên quan, chúng ta nhận thấy, PLC có rất nhiều đặc
điểm trong đó bao gồm cả việc tập thể và trách nhiệm cho việc học tập của học sinh được
chia sẻ rộng rãi, tập trung vào câu hỏi và đối thoại phản chiếu giữa các nhà giáo dục, tập
trung vào việc cải thiện việc học của học sinh, các giá trị và tiêu chuẩn chung.

2.2. Vai trò của cộng đồng học tập chuyên môn với sự phát triển nghề nghiệp
giáo viên phổ thông

Phát triển chuyên môn nghề nghiệp của giáo viên phổ thông là nhân tố ảnh hưởng to
lớn đến toàn bộ hệ thống giáo dục. Hơn ai hết, năng lực của giáo viên, trong đó sự phát
triển nghề nghiệp liên tục của họ có thể quyết định đến sự tiến lên hay thụt lùi của chất
lượng giáo dục thế hệ trẻ. Vậy, cộng đồng học tập chuyên mơn của giáo viên ở trường
phổ thơng đóng vai trò như thế nào đối với sự phát triển nghề nghiệp của đội ngũ giáo
viên ở đây?

</div>
<span class=’text_page_counter’>(5)</span><div class=’page_container’ data-page=5>

(5)

Nguyễn Hoang Đan Huy

86

Thực vậy, nhiều cơng trình nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định vai trị của cộng
đồng học tập chun mơn với sự phát triển nghề nghiệp của giáo viên, trong đó, tiêu biểu

là một nhóm nghiên cứu bao gồm Poulos, Culberston, Piazza, & D’entremont (2014) [15]
đã nhận định rằng: các trường phổ thơng có thể nâng cao chất lượng giáo dục của mình
nếu tập thể các thành viên trong trường hợp tác nỗ lực để cải thiện, học hỏi và cùng nhau
đổi mới; Các PLC là cơng cụ có thể mang lại cơ hội để hình thành và thúc đẩy những nỗ
lực tập thể đó. Việc xây dựng các PLC có thể là cách tốt nhất để thiết lập môi trường học
tập liên tục cho giáo viên trong nhà trường (Davidson & Dwyer, 2014 [2]; Stahl, 2015 [18;
DuFour, 2014 [4]; Owen, 2015 [13]).

là một nhóm nghiên cứu bao gồm Poulos, Culberston, Piazza, & D’entremont (2014) [15]đã nhận định rằng: các trường phổ thơng có thể nâng cao chất lượng giáo dục của mìnhnếu tập thể các thành viên trong trường hợp tác nỗ lực để cải thiện, học hỏi và cùng nhauđổi mới; Các PLC là cơng cụ có thể mang lại cơ hội để hình thành và thúc đẩy những nỗlực tập thể đó. Việc xây dựng các PLC có thể là cách tốt nhất để thiết lập môi trường họctập liên tục cho giáo viên trong nhà trường (Davidson & Dwyer, 2014 [2]; Stahl, 2015 [18;DuFour, 2014 [4]; Owen, 2015 [13]).

Nhà nghiên cứu DuFour (2014) đã khẳng định rằng, “quy trình hoạt động của các
cộng đồng học tập chuyên nghiệp cung cấp môi trường tốt nhất cho sự phát triển chun
mơn có hiệu quả của giáo viên trong nhà trường”. Woodland & Mazur (2015) [21] cũng
nhấn mạnh thêm rằng: PLC được biết đến với tư cách là một trong những cách tiếp cận
tốt nhất để giúp cho giáo viên cải thiện và học tập trong suốt q trình cơng tác của họ.
Tam (2015) [19] nói thêm rằng việc thiết lập PLC là một cách để tối đa hóa sự phát triển
chun mơn trong các trường học trong thời đại ngày nay: “Nhiều nghiên cứu đã ghi
nhận rằng, các hoạt động được tổ chức trong PLC có thể mang lại sự thực học cho giáo
viên; các hoạt động như vậy thường bao gồm: giáo viên quan sát các thực hành của
nhau, cho và nhận phản hồi, tham gia vào các nghiên cứu chuyên nghiệp và tham gia
vào các cuộc thảo luận, tọa đàm để cùng nhau phản biện… tất cả đều là hoạt động đặc
trưng của PLC”.

Mặc dù nhà nghiên cứu Poulos et al. (2014) nhận thấy rằng nhiều “giáo viên vẫn
khơng thoải mái với việc chỉ trích người khác ở mức cần thiết” [15], nhưng chính sự khó
chịu về ban đầu này cho thấy một cơ hội để thay đổi tích cực: chính những phản hồi trung
thực và những phản biện mang tính xây dựng là rất quan trọng để giúp giáo viên cải thiện
và nâng cao chất lượng dạy học của mình.

Nghiên cứu của Sims & Penny (2014) [17] thông qua việc quan sát hoạt động của
những PLC đã chỉ ra rằng: hình thức này mang lại một mơi trường tích cực và xây dựng
thông qua việc cung cấp cơ hội cho các cuộc trò chuyện chuyên nghiệp cởi mở và minh

bạch giữa các giáo viên trong cùng cộng đồng học tập chun mơn. Giáo viên khơng chỉ
tìm kiếm cơ hội để tăng cường kiến thức của họ bằng PLC mà cịn những người tìm kiếm
cơ hội cải thiện chuyên môn, tư vấn và chia sẻ ý tưởng và chuyên môn mà họ nhận được
từ các giáo viên khác và từ một người khác. Davidson & Dwyer (2014) [2] và Peskin et al.
(2009) [14] đã xác nhận điều này sau khi phỏng vấn một số giáo viên về kinh nghiệm của
họ khi tham gia vào các PLC; nghiên cứu của họ cho thấy rằng giáo viên rất thích chia sẻ
kiến thức chun mơn, tài liệu học tập và nghiên cứu của họ. Hơn nữa, các giáo viên khi
tham gia vào PLC đã học được nhiều hơn về những kinh nghiệm thực tiễn trong dạy học
từ các giáo viên khác trong PLC.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(6)</span><div class=’page_container’ data-page=6>

bạch giữa các giáo viên trong cùng cộng đồng học tập chun mơn. Giáo viên khơng chỉtìm kiếm cơ hội để tăng cường kiến thức của họ bằng PLC mà cịn những người tìm kiếmcơ hội cải thiện chuyên môn, tư vấn và chia sẻ ý tưởng và chuyên môn mà họ nhận đượctừ các giáo viên khác và từ một người khác. Davidson & Dwyer (2014) [2] và Peskin et al.(2009) [14] đã xác nhận điều này sau khi phỏng vấn một số giáo viên về kinh nghiệm củahọ khi tham gia vào các PLC; nghiên cứu của họ cho thấy rằng giáo viên rất thích chia sẻkiến thức chun mơn, tài liệu học tập và nghiên cứu của họ. Hơn nữa, các giáo viên khitham gia vào PLC đã học được nhiều hơn về những kinh nghiệm thực tiễn trong dạy họctừ các giáo viên khác trong PLC.

(6)

Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp…

87
giữa giáo viên trao đổi với nhau trong PLC rất có thể có hiệu quả vì chúng được sử dụng
trong thực tế chứ khơng phải là lí thuyết sng.

Kết quả phỏng vấn trên các giáo viên tham gia PLC về lợi ích và giá trị mà họ thu
được từ PLC được nhóm nghiên cứu Davidson & Dwyer (2014), McConnell và cộng sự
(2013) và Richmond & Manokore (2011) chỉ ra bao gồm như sau:

(1) Chia sẻ thơng tin và nguồn tài liệu;

(2) Tìm hiểu các quan điểm và thực hành mới dựa trên bằng chứng;
(3) Tìm hiểu về các giải pháp thực tế;

(4) Phát triển tình đồng nghiệp;

(5) Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các thành viên.

Như vậy, đối với sự phát triển nghề nghiệp giáo viên, các cơng trình nghiên cứu đã

khẳng định ý nghĩa của cộng đồng học tập chuyên môn như một yếu tố quan trọng trong
hệ thống giáo dục hiện đại. Có thể nói, cộng đồng học tập chun mơn vừa là mục đích,
cơng cụ, vừa là mơi trường để phát triển chuyên môn nghề nghiệp của giáo viên.

khẳng định ý nghĩa của cộng đồng học tập chuyên môn như một yếu tố quan trọng tronghệ thống giáo dục hiện đại. Có thể nói, cộng đồng học tập chun mơn vừa là mục đích,cơng cụ, vừa là mơi trường để phát triển chuyên môn nghề nghiệp của giáo viên.

2.3. Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với chất lượng giáo dục
ở nhà trường phổ thông

Như đã đề cập ở trên, cộng đồng học tập chuyên mơn của giáo viên có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến sự vận hành của tồn bộ q trình giáo dục. Mối quan hệ tương quan giữa
cộng đồng học tập chuyên môn của giáo viên với chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ
thông đã được công bố trong nhiều cơng trình nghiên cứu trên thế giới.

2.3.1. Đối với hiệu quả dạy học của giáo viên

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng PLC có thể cải thiện hiệu quả thực hành giáo dục

của giáo viên và nâng cao trình độ chuyên môn của họ thông qua hợp tác, nghiên cứu
hành động và thảo luận. PLC cũng có thể cung cấp cơ hội cho giáo viên để suy ngẫm về
thực hành của riêng mình cũng như chia sẻ những chiêm nghiệm về thực hành chuyên
môn giữa giáo viên với nhau. Thảo luận mang tính phản biện, đóng góp ý kiến mang tính
xây dựng thường thấy trong các hoạt động của những PLC có thể xem là một cơ hội tốt để
giáo viên tìm hiểu, học hỏi lẫn nhau về các quan điểm mới, các góc nhìn mới; nhìn nhận
lại những khó khăn, thách thức mà mình và đồng nghiệp phải đối mặt; nhận phản hồi tích
cực và xác định các phương pháp tiếp cận mới (Poulos và cộng sự, 2014; Tam, 2015).
Sims & Penny (2014) [17] nói rằng: “PLC có thể cung cấp cho giáo viên cơ hội để đặt câu
hỏi, nghiên cứu và tìm các giải pháp liên quan đến các vấn đề khác nhau của trong tác
giảng dạy của mình”.

Ngồi ra, PLC có thể làm sâu sắc thêm kiến thức chuyên môn của giáo viên bên ngoài

</div>
<span class=’text_page_counter’>(7)</span><div class=’page_container’ data-page=7>

(7)

Nguyễn Hoang Đan Huy

88

Các PLC cũng có thể tác động tích cực đến sự tự tin về năng lực bản thân và chất

lượng thực hành của giáo viên vì trong các PLC, giáo viên có thể giao tiếp với nhau để

cùng chia sẻ cách giải quyết những trở ngại khác nhau trong nghề nhằm giúp cải thiện
thực tế giảng dạy và giáo dục của họ. Nói cách khác, sự tự tin vào năng lực bản thân cũng
như niềm tin vào năng lực chun mơn của người giáo viên có thể giúp họ thực hiện công
việc một cách hiệu quả hơn. Điều này là rất quan trọng bởi vì giáo viên có thể gặp phải
những khó khăn, thách thức trong quá trình cơng tác của mình. Do đó, một mơi trường
làm việc có sự hỗ trợ, cộng tác có thể tác động tích cực đến niềm tin của giáo viên
(Thornton & Cherrington, 2014; Davidson & Dwyer, 2014). Tam (2015) đã nhận định
rằng, trong các PLC, “giáo viên dễ dàng tiết lộ những bất ổn của họ và mong muốn có
được những bình luận và lời khun từ những người khác”.

Không những vậy, đối với những giáo viên mới vào nghề, PLC đóng vai trị hết sức
to lớn. Thông qua các hoạt động của PLC, giáo viên mới có thể :

(1) Trải nghiệm sự thay đổi và sự khác biệt giữa những gì được học ở trường đại học
với thực tế giáo dục tại trường phổ thông (McConnell và cộng sự, 2013; Woodland &
Mazur, 2015).

(2) Có thể hưởng lợi từ sự cố vấn, hướng dẫn của các giáo viên có kinh nghiệm khác
về các hoạt động tại trường phổ thông (Beddoes, Prusak, & Hall, 2014).

(3) Có được sự chuẩn bị tuy vẫn thường bị choáng ngợp trước nhiệm vụ giảng dạy và
các công tác được giao ở trường phổ thông (Jones, 2012).

(4) Được đáp ứng nhu cầu cấp bách về nguồn hỗ trợ và tài liệu giảng dạy và hỗ trợ
lập kế hoạch (Davidson & Dwyer, 2014, trang 46).

(5) Có những hiểu biết, kinh nghiệm giá trị từ các đồng nghiệp về thực hành thực tế
hơn là những lí thuyết trên giấy (McConnell và cộng sự, 2013; Woodland & Mazur, 2015).

Tam (2015) đã phỏng vấn một số giáo viên của nhiều quốc gia khác nhau về niềm tin
của họ đối với việc phát triển chuyên môn thông qua việc tham gia vào các PLC; một
trong những giáo viên mới cho biết: “Chúng tôi học kiến thức về giảng dạy trong các
chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nhưng thực ra loại kiến thức đó là lí thuyết
áp đảo. Trong thực tế, lí thuyết được học hồn tồn khơng đủ để đối phó với các vấn đề
phát sinh trong q trình giảng dạy tại trường phổ thơng. Chúng tôi cần học hỏi từ các
đồng nghiệp, đặc biệt là những người có kinh nghiệm phong phú trong việc giải quyết các
vấn đề hàng ngày trên lớp và tập trung vào việc mang lại hiệu quả học tập cho học sinh”.

Hơn nữa, thực tế cho thấy, giáo viên mới thường cho thấy mức độ bị cô lập cao hơn
các giáo viên có kinh nghiệm, trong khi đó, các trường phổ thơng lại thường khơng chú
trọng tới những chính sách hay hoạt động nhằm khuyến khích hoặc hỗ trợ sự hợp tác của
mọi giáo viên trong toàn trường. Trong nỗ lực giải quyết các vấn đề cô lập của các giáo
viên mới, một số trường học chỉ định một giáo viên có kinh nghiệm làm cố vấn cho giáo
viên mới. Tuy nhiên, việc được chỉ định cho một người cố vấn có thể không đủ hiệu quả
hoặc hỗ trợ không đầy đủ cho các giáo viên mới (Jones, 2012, David & Dwyer, 2014).

</div>

<!–links–>

Rate this post

Viết một bình luận